TINH THẦN NHÂN BẢN DÂN TỘC TRONG TÔN GIÁO: TRƯỜNG HỢP HÒA THƯỢNG THÍCH QUẢNG ĐỘ
Nguyễn Thanh Liêm
["Thật
xứng đáng khi Hội Đồng Sáng Hội Rafto chọn trao giải Tưởng Niệm giáo sư Thorold
Rafto năm 2006 cho một trong những người Việt Nam bảo vệ dân chủ, tự do tôn
giáo và nhân quyền lỗi lạc nhất là Hòa Thượng Thích Quảng Độ... Hòa Thượng
Thích Quảng Độ, một sĩ phu lãnh đạo và là thế lực kết hợp nơi quê hương Ngài.
Là một tăng sĩ Phật giáo, học giả và nhà văn, Hòa Thượng đem cả đời mình phục
vụ tận tụy cho công lý thăng tiến, cũng như tiếp nối truyền thống Phật giáo bất
bạo động, khoan dung và từ bi..." Quốc Tế Nhân Quyền trao giải Rafto 2006]
Ở đâu có con
người, có sự sinh hoạt của loài người là có những suy tư về sự sống. Tôn giáo,
hàm chứa triết lý, cung ứng những suy tư về cứu cánh của cuộc đời cũng như con
đường người ta phải đi, phương tiện người ta phải dùng để đạt tới cứu cánh đó.
Thoát khỏi cảnh khổ đau, tiến tới hạnh phúc thật ở một nơi nào đó, đó là điều
mà con người luôn luôn mong muốn từ xưa đến giờ. Tôn giáo và triết lý nào cũng đưa
ra giải pháp giúp con người thực hiện mơ ước của mình. Bởi bao hàm mục đích
phục vụ con người (dù là với danh xưng cứu rổi hay giải thoát đi nữa) nên tôn
giáo có liên hệ nhiều đến triết lý nhân bản. Người ta có thể tìm thấy tinh thần
nhân bản trong Khổng Giáo, trong Phật Giáo, trong Thiên Chúa Giáo, v.v.. Nhưng
tinh thần nhân bản đó chưa phải là tinh thần nhân bản đúng với ý nghĩa mà người
trí thức ngày nay muốn nói. Nhân bản như người ta quan niệm ngày nay phải lấy
con người làm gốc, xem con người là căn bản của đời sống xã hội, xác nhận giá
trị của con người, công nhận quyền sống, quyền tìm hạnh phúc ngay trong đời
sống hiện tại trong thế gian hiện hữu trước đã. Con người phải có quyền làm
người, có quyền được sống như con người trước hết và không ai, không thế lực
nào có quyền hay có thể phủ nhận sự kiện đó được. Nhân bản ngày nay đòi hỏi
phải lấy con người và cuộc sống của con người làm cứu cánh chớ không dùng con
người làm phương tiện bất kỳ cho một mục đích gì. Ở thời xưa, thời mà con người
chưa ý thức được rõ ràng giá trị thật sự của con người, hay trong hoàn cảnh
chính trị văn hóa khắc nghiệt mà con người không dám hay không thể nghĩ đến và
nói đến giá trị đó, thì cứu cánh của cuộc đời là hạnh phúc vĩnh cửu ở thế giới
bên kia sau khi chết hơn là ở thế giới hiện hữu. Trong hoàn cảnh đó, tôn giáo
thường có khuynh hướng dẫn dắt con người đi đến thái độ chịu đựng, chịu mọi khổ
sở ở đời, quên hết giá trị con người trên thế gian để đổi lấy hạnh phúc đời đời
ở thế giới cực lạc hay thiên đàng sau khi chấm dứt cuộc sống trần gian. Nhưng
khi con người tiến bộ hơn, ý thức được giá trị, khả năng cũng như vị trí của
mình trong xã hội, trong cuộc đời này, người ta đã đứng lên đòi hỏi quyền làm
người. Những bàn tuyên ngôn nhân quyền ra đời ở Mỹ, ở Pháp, và trên thế giới
sau này bao hàm tinh thần nhân bản đúng nghĩa của chữ. Người trí thức, đạo đức,
tiến bộ, không thể xa rời tinh thần nhân bản này. Tôn giáo ngày nay cũng dành
cho nhân bản một chổ đứng quan trọng. Những công tác xã hội, từ thiện, giáo
dục, v.v., của những tôn giáo lớn cho thấy các nhà tôn giáo ngày nay cũng hướng
về cuộc sống hiện tại của con người ở thế gian này chớ không phải chỉ nghĩ đến
thiên đàng ở thế giới xa xôi nào.
Riêng ở Việt Nam từ xưa những bậc
trí thức dù xuất thân từ cửa Phật, từ cửa Khổng, hay từ Lão giáo đi nữa, vẫn có
tinh thần nhân bản rất cao. Hoàn cảnh lịch sử (nhất là thời Bắc thuộc), cùng
hoàn cảnh địa lý đặc biệt của nước Việt (bên cạnh một nước láng giềng khổng lồ
luôn dòm ngó, đe dọa đời sống tự do/độc lập của mình), đã sớm gây ở giống người
Hồng Lạc này (vốn có bản chất hào hùng và thông minh) một tinh thần nhân bản vững chắc, gắn liền
với ý thức quốc gia dân tộc. Tôn giáo ở Việt Nam cũng thế. Tôn giáo gốc của người Việt, đạo Thờ Ông Bà,
là một tôn giáo đầy nhân bản và dân tộc tính. Tam giáo - Phật, Lão, Khổng - khi
du nhập vào đất nước này cũng đã trải qua tiến trình xã hội hóa ở đây để thích
hợp với hoàn cảnh, tính tình Việt Nam. Tam giáo vào đây đã được Việt Nam hóa để
trở thành Tam Giáo Việt Nam, với đầy tính nhân bản và dân tộc Việt. Tôn giáo ở
đây gắn liền với đất nước và dân tộc Việt Nam. Phụng sự tôn giáo không tách rời
khỏi phụng sự quê hương dân tộc Việt. Các nhà sư các triều đại Đinh, Lê, Lý,
Trần, là những nhà trí thức yêu nước, thương dân, hết lòng lo lắng cho dân, hết
lòng phụng sự quốc gia, dân tộc. Về sau lúc Nho giáo thinh hành ở các triều đại
Lê, Nguyễn, và nhà Nho đã đứng ra lo việc trị quốc an dân, nhưng truyền thống
nhân bản dân tộc vẫn không xa lìa Phật giáo. Nói chung Tam Giáo Việt Nam có
tinh thần nhân bản, dân tộc rất cao. Tinh thần đó thể hiện rõ ràng ở các tôn
giáo mới ở Miền Nam sau này dưới thời Pháp thuộc như Cao Đài giáo và Phật Giáo
Hòa Hảo. Các vị lãnh đạo tinh thần của các giáo phái này đều là những nhà ái
quốc, hết lòng phụng sự đất nước quê hương.
Phật giáo Việt Nam Thống Nhất dưới
sự lãnh đạo của Đại Lão Hòa Thượng Thích Quảng Độ hiện nay tiếp nối truyền
thống Phật Giáo nhân bản, dân tộc của Việt Nam đã nói ở trên. Đại
Lão Hòa Thượng Quảng Độ là một nhà trí thức nhân bản dân tộc vô cùng sáng giá
của Việt Nam hiện nay. Ngài ra đời và lớn lên trong hoàn cảnh thảm
thương của đất nước. Ngài xuất gia năm 1942, lúc này Ngài mới được 14 tuổi. Năm 1945 Ngài đã chứng kiến cảnh mất tính
người, bất nhân, phản nhân tính của chủ nghĩa cộng sản. Sư phụ của Ngài bị
cộng sản hành quyết sau một phiên tòa đấu tố gian dối, bị kết tội
phản bội, Việt gian bán nước. Sư phụ tay bị trói sau lưng bằng dây kẻm, máu
chảy ròng ròng, mang tấm biển treo trên cổ. Một nạn nhân khác, một người bạn đồng môn của Ngài cũng cùng chung số
phận. Hai cái chết bi thảm, phi lý này (của một sư phụ và của một người bạn
đồng môn) nói lên tính phi nhân bản,
không tình người, của chủ nghĩa độc đoán, tàn bạo, vô thần, của cộng sản Bắc
Việt. Trong tập hồi ký phát hồi năm 2006 Ngài viết: "Ngay
lúc ấy tôi nguyện làm hết mọi sự để chống lại sự cuồng tín, bất bao dung và đem
cuộc đời tôi phụng sự cho công lý theo giáo lý bất bạo động, từ bi, khoan hồng
của Phật giáo." Năm 1954 Ngài theo chân đoàn người di cư, thoát
khỏi chế độ cộng sản Miền Bắc, định cư ở Miền Nam tự do, dâng hiến cuộc đời cho
đạo Phật. Ở đây Ngài trở thành giảng sư của Đại Học Vạn Hạnh. Trong thời gian
dạy học Ngài có nhiều tác phẩm biên khảo về Phật giáo và một số tác phẩm sáng
tác văn chương khác. Nhưng cuộc sống yên ổn phụng sự tôn giáo, giáo dục và văn
chương của Ngài không kéo dài được khi Cộng sản Bắc Việt xâm chiếm Miền Nam.
Những cuộc đàn áp tôn giáo, bắt bớ, giết chốc, cướp của, lại diễn ra. Năm 1977
Ngài bị chánh quyền cộng sản bắt lần đầu tiên và bị đưa ra tòa về tội "phá hoại đoàn kết dân tộc và lợi dụng tôn giáo
để phá rối trật tự công cộng." Bị kết tội phá hoại đoàn kết dân tộc
chỉ vì Ngài không chấp nhận sự thống nhất Phật giáo theo chánh sách của nhà
nước cộng sản muốn biến Phật giáo thành một tôn giáo quốc doanh, không chấp
nhận sự đàn áp, cướp bốc tài sản của các
tôn giáo mà chánh quyền cộng sản đã áp dụng ở Miền Nam từ sau 1975. Tháng 12
năm 1982 Ngài lại bị bắt đưa về quản thúc tại Vũ Đoài, tỉnh Thái Bình, nơi sinh
quán của Ngài. Được trả tự do năm 1992 nhưng lại bị bắt hai năm sau đó khi Ngài
tổ chức ủy lạo đồng bào nạn nhân lũ lụt. Ngài được thả ra năm 1998 nhưng lại bị
quản thúc tại Thanh Minh Thiền Viện ở Sài Gòn. Bị bắt, bị giam, bị quản thúc,
bị tố khổ đủ điều nhưng Ngài vẫn không hề lay chuyển, luôn giữ tinh thần bất
khuất, giữ vững lập trường nhân bản, tự do, dân chủ của mình. Ngài bảo: "Chẳng
sao cả, chúng tôi đã chịu cảnh đàn áp từ 31 năm rồi." (theo lời
thuật của ký giả Sebastien Berger trên nhật báo Daily Telegraph ở Luân Đôn ngày
27.11.2006). Sự tranh đấu bất khuất, bền bĩ của Ngài được thế giới theo dõi ghi
nhận. Ngày 24 tháng 7, 2002, Ngài được tổ chức Human Rights Watch trao giải nhân quyền Hellman/Hammett. Ngài là
một trong số 37 người thuộc 39 quốc gia được lựa chọn nhận giải thưởng đặc biệt
này. Ngày 4 tháng 11 năm 2006 Ngài được tổ chức Quốc Tế Nhân Quyền trao giải
Rafto 2006 tại Na Uy. Trong bài diễn văn
của ông Arne Lijedahl Lynngard, Chủ Tịch Hội Đồng Sáng Hội Rafto, có đoạn
như sau:
"Thật xứng đáng khi Hội Đồng Sáng
Hội Rafto chọn trao giải Tưởng Niệm giáo sư Thorold Rafto năm 2006 cho một
trong những người Việt Nam bảo vệ dân chủ, tự do tôn giáo và nhân quyền lỗi lạc
nhất là Hòa Thượng Thích Quảng Độ... Hòa Thượng Thích Quảng Độ, một sĩ phu lãnh
đạo và là thế lực kết hợp nơi quê hương Ngài. Là một tăng sĩ Phật giáo, học giả
và nhà văn, Hòa Thượng đem cả đời mình phục vụ tận tụy cho công lý thăng tiến,
cũng như tiếp nối truyền thống Phật giáo bất bạo động, khoan dung và từ bi..."
Ngài không đến Na
Uy để nhận giải thưởng được nhưng trong thư
ủy quyền của Hòa Thượng gửi ông Võ Văn Ái nhờ thay Ngài sang Na Uy nhận
giải có những đoạn đáng lưu ý như sau:
"Tôi viết thư này nói lên lời cảm tạ chân thành và sâu xa việc chọn tôi
lãnh Giải Tưởng Niệm giáo sư Thorold Rafto năm 2006 dành cho những người bảo vệ
nhân quyền... Là Tăng sĩ Phật giáo, tôi không mưu cầu quyền lợi hay danh vị.
Nhưng tôi tin quyết vào phong trào dân chủ tại Việt Nam, và tôi cống hiến đời
tôi cho công trình kết hợp mọi người Việt bất phân tôn giáo, bất phân chính
kiến để cùng nhau đẩy mạnh tiến trình dân chủ. Vinh danh tôi như "thế lực
kết hợp" là Ngài đã thấy rõ động cơ sâu thẳm của đời tôi... Ngài đặt lòng
tôi vào cuộc đấu tranh ôn hòa, bền bĩ, và tôi sẽ kiên trì cho tới khi hoàn
mãn... Nhưng hoàn cảnh tôi hiện nay vô cùng khó. Như Ngài biết tôi đang bị quản
chế, dù không hề được tuyên án hay buộc tôi. Tôi cũng đứng ở vị thế thứ hai
trong Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất, là giáo hội bị nhà nước Việt Nam
cấm đoán. Hai nguyên do ấy biến tôi thành một công dân bất hợp pháp dưới mắt
nhà cầm quyền Cộng sản Việt Nam. Họ có thể bắt bỏ tù tôi bất cứ lúc nào... Nhà
cầm quyền Cộng sản Việt Nam đang nhìn tôi và Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống
Nhất như cái gai phải nhổ. 31 năm qua, chính quyền này đã sử dụng đủ thứ phương
tiện - lừa dối, áp đảo và bạo lực nhằm đàn áp Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống
Nhất để ngăn cấm chúng tôi công khai đòi hỏi cải cách dân chủ và nhân quyền.
Nếu nhà cầm quyền Cộng sản Việt Nam thành công ly cách tôi với phong trào đòi
hỏi dân chủ và nhân quyền của Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất, đó sẽ là
gánh nặng nghìn cân được cất đi cho nhà nước XHCN. Tôi không thể nào chấp nhận
nguy cơ ấy. Chỗ đứng của tôi là trên quê hương Việt, cạnh kề đồng bào tôi, tôi
không bao giờ bỏ rơi đồng bào tôi cho đến ngày Việt Nam đạt tự do."
Năm 2007, Hòa Thượng Quảng Độ được đề cử nhận lãnh giải thưởng Nobel Hòa Bình
vì đã hành động cho dân chủ Việt Nam. Trong bản đề cử, Dân Biểu Bruno Mellano của Quốc Hội Ý nói:
"Hòa Thượng Thích Quảng Độ đã dâng
hiến trọn đời cho cuộc đấu tranh bất bạo động nhắm mục tiêu dân chủ, tự do tôn
giáo và nhân quyền cho Việt Nam. Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất, đại
diện cho 80% quấn chúng tín đồ Phật giáo trong dân số 83 triệu người, hiện đang
bị chế độ cấm không cho hoạt động, hàng giáo phẩm bị đàn áp, sách nhiểu và giam
cầm. Giáo Hội bị nhà cầm quyền Cộng sản đặt vào tình trạng bất hợp pháp từ năm
1981. Hệ thống rộng lớn về trường học, đại học, bệnh xá, các trung tâm văn hóa,
từ thiện của Giáo Hội bị nhà nước tịch thu, các nhà lãnh đạo Giáo Hội bị bắt,
tín đồ Phật tử bị sách nhiểu. Vị lãnh đạo thứ hai của Giáo Hội là Hòa Thượng
Thích Quảng Độ, năm nay 77 tuổi, bị giam cầm, quản chế từ 30 năm qua chỉ vì Hòa
Thượng đấu tranh ôn hòa cho tự do tôn giáo. Hiện nay Hòa Thượng vẫn còn bị giam
giữ không lý do, không xét xử, ngay nơi ngôi chùa của Ngài."
Đối với ký giả Richard Lloyd-Parry của báo Times tại Luân Đôn, Hòa Thượng Thích Quảng Độ là "nhà
đối kháng xuất chúng và được kính trọng nhất ở Việt Nam." Cảm
tưởng của ông Lloyd-Parry về Hòa Thượng Quảng Độ được ghi lại như sau: "Tôi
từng phỏng vấn một số nhà ly khai và những người bị cô lập toàn diện, nhưng
chưa hề gặp ai như Hòa Thượng Thích Quảng Độ. Ngài vừa dũng cảm vừa phơi phới
mà lại hóm hỉnh. Khởi đầu, tôi thương cảm cho hoàn cảnh Hòa Thượng sống quạnh
hiu nơi liêu thất trong chùa, không có thị giả, không có đệ tử để hoằng hóa.
Nhưng qua câu chuyện, thấy Ngài chẳng có chút tũi hờn, nên cuối cùng tôi bổng
cảm nhận niềm an lạc được cùng Ngài trò chuyện. Thật là một con người phi
thường."
Trong Thông Bạch Vu
Lan 2549, Ngài viết:
"Thế giới mênh mông, địa ngục cũng
mênh mông. Ở đâu có khổ đau, ở đấy có địa ngục; ở đâu có ác tâm, ở đấy có địa
ngục; ở đâu có đàn áp nhục hình, ở đấy có địa ngục; ở đâu ý chí và ngưỡng vọng
con người bị vùi dập, ở đấy có địa ngục. Trong ý nghĩa về địa ngục như thế,
người Phật tử biết rằng nếu không có tâm Đại Bi, thì không thể nào giải thoát
chúng sinh ra khỏi loại địa ngục... Trong xã hội đầy dẫy tệ đoan ngày nay, đơn
vị gia đình đang bị hủy hoại. Lòng hiếu thuận biến thành niềm tham kuyến hiếu
lợi. Tiền tài, danh vọng làm thước đo cảnh sống trăm năm hư ảo. Cha mẹ, tổ
tiên, tổ quốc... đang là những chiếc bóng mờ thiên di ra khỏi trái tim và trí
não con người. Đây chính là địa ngục thường trực vây kín con người xã hội ngày
nay... Phải sống và chết trong Hiếu hạnh thì mới thánh hóa những kiếp đời và
tịnh hóa nhân gian. Hiếu hạnh với Đức Thế Tôn là truyền thừa chánh pháp; hiếu
hạnh với tổ tiên là bảo vệ con người của nòi giống; hiếu hạnh với cha mẹ trong
hiện tại, quá khứ hay vị lai là phục vụ chúng sinh. Bằng Hiếu hạnh mà Phật tử
Việt Nam góp phần tích cực đòi lại Nhân quyền cho người sống và Linh quyền cho
người chết. Thực hiện Hiếu hạnh tức đem tâm Đạiø Bi mà che chở, đem tâm Đại Từ mà làm lợi ích, đem tâm Vô Úy mà bảo vệ con
người và chúng sinh trong thời đại hiếu sát, bức hiếp ngày nay..."
Hồi tháng 3 năm 2006, trước tình
trạng biểu tình đình công của 140 ngàn công nhân tại các khu công nghiệp, chế
xuất từ các tỉnh Miền Nam lan ra Miền Trung và Miền Bắc, Hòa Thượng Thích Quảng
Độ, nhân danh Viện Trưởng Viện Hóa Đạo Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất,
kêu gọi các tổ chức Lao Động Quốc Tế, các Công Đoàn tại Đông Nam Á, Nhật Bản,
Âu Châu, Úc Châu, Ngân Hàng Thế Giới, Quỷ Tiền Tệ Quốc Tế, các Quốc Hội và các
Chính Phủ Âu, Á, Mỹ đang tài trợ cho Việt Nam lên tiếng bênh vực cho người lao
động Việt Nam đang bị bóc lột đến tận xương tủy và áp lực với nhà cầm quyền Hà
Nội chấm dứt thảm trạng của 80% nhân dân lao động. Nguyên văn bản lên tiếng của Hòa Thượng có những đoạn quan trọng sau
đây:
"... đồng lương công nhân và nhân dân lao động là đồng lương chết đói: theo tiêu chuẩn Quốc
Tế, thu nhập tối thiểu của người lao động trong các nước nghèo là 2 Mỹ kim mỗi
ngày, tương đương 60 Mỹ kim mỗi tháng. Nhưng thu nhập của công nhân lao động
tại Việt Nam chỉ bằng 0, 733 Mỹ kim mỗi ngày, tính theo mức lương tối thiểu
dành cho công nhân tại các xí nghiệp quốc doanh là 290, 000 đồng (18 Mỹ kim)
năm 1999, nay vừa được tăng lên 350, 000 (22 Mỹ kim) hồi tháng 10, 2005.
Trong khi ấy cán bộ đảng, chỉ tính
từ cỡ giám
đốc, thường xuyên đi chữa bệnh ở Singapore, đi đánh bạc ở Macao! Mới đầu
năm nay, vụ ông Bùi Tiến Dũng, Tổng Giám Đốc PMU 18 đem hàng triệu Mỹ kim đi đánh bạc, chỉ trong hai
tháng vứt qua cửa sổ 2,4 triệu Mỹ kim cho cá cược bóng đá. Báo chí còn
phanh phui hơn 200 kẻ tham gia đường dây đánh bạc lớn này, ném vào cuộc đỏ đen hơn 7 triệu Mỹ kim...
Nhưng thực tại không chỉ thông qua
con số, mà còn biểu dương thê thảm trên bình diện xã hội. Tám điểm yêu sách
trong bức thư do 11 đại diện công nhân ở 6 khu công nghiệp, chế xuất lao động
tại Miền Nam và Miền Trung ký gởi Bí Thư Nông Đức Mạnh hôm 18.2.2006 thu tóm bi
kịch người lao đông 3 năm qua trong ba câu: "Cuộc đời chúng tôi còn sống thì vẫn còn bị cướp. Đời cha tôi
bị cướp, đời tôi bị cướp... do sự tính toán nham hiểm của đảng, mà người dân
chúng tôi sống không được mà chết cũng không xong."
Đảng Cộng Sản Việt Nam tự mình xác
định qua điều 4 trên Hiến Pháp "đảng là đội tiên phong của giai cấp công nhân Việt Nam, đại biểu trung
thành quyền lợi của giai cấp công nhân, nhân dân lao động thế mà 60 năm qua
nhân dân lao động", giai cấp công nông nghèo đói, bị cán bộ
đảng các cấp cho đến các công ty nước ngoài bốc lột thường xuyên. Nhưng đảng và
nhà nước vẫn ngoảnh mặt làm ngơ không can thiệp, không bảo vệ giai cấp công
nông...
Tình trạng này không thể kéo dài.
Nhân danh Viện Trưởng Viện Hóa Đạo GHPGVNTN, tôi cất lời kêu gọi:
ĐCSVN, nhân Đại Hội X, phải đặt lại vấn đề sinh tử cơ bản
cho đại đa số nhân dân lao động công nông bằng ba biện pháp:
1. Chuẩn hóa mức sống người lao động theo tiêu
chuẩn Quốc Tế;
2. Bảo đảm đời sống người lao động thông qua hệ
thống an sinh xã hội và y tế, bảo hiểm tai nạn lao động và lương hưu;
3. Trên và trước hết trả lại cho người công
nhân quyền thành lập Công Đoàn Tự Do Việt Nam để bảo vệ quyền lợi đích thực cho
nhân dân lao động, thoát ly sự kiềm tỏa và khống chế của Tổng Liên Đoàn Lao
Động Việt Nam của đảng..."
Gần đây Hòa Thượng đã đến thăm, ủy lạo tập thể dân oan đi
khiếu kiện ở Sài Gòn. Nói chuyện với đồng bào khiếu kiện, Ngài bảo:
Tôi đến đây ngỏ lời thăm hỏi sức khỏe đồng bào, để chia sẻ nỗi thống
khổ, tũi nhục của đồng bào. Vì Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất cũng là
nạn nhân của chế độ như đồng bào. Giáo Hội chúng tôi cũng bị cướp đoạt tất cả
mọi cơ sở từ giáo dục, từ thiện cho đến chùa viện... Giáo Hội chúng tôi cũng đã
từng khiếu kiện suốt ba mươi năm qua. Cho đến nay đã có cả nghìn bức văn thư
khiếu kiện mà họ không phản hồi một văn thư nào, không giải quyết gì cả. Họ coi dân như cỏ rác...
Để cho hiện trạng xảy ra cho đồng
bào ở đây hôm nay không tái diễn ra nữa, cho đồng bào cũng như cho chúng tôi.
Nghĩa là đồng bào có nhà cửa, có cơ nghiệp, mà nay phải dầm sương dải nắng như
thế này, rồi đòi hỏi như thế này mà chẳng được giải quyết. Muốn cho tình trạng này không xảy
ra nữa thì chúng ta phải đòi hỏi cho bằng được nhân quyền, công lý và công bằng
xã hội. Buộc họ phải trả lại cái quyền sống và quyền làm người cho ta,
vấn đề quan trọng nhất. Muốn như thế thì phải chấm dứt cái nạn độc quyền cai
trị. Bởi vì độc quyền nó đưa đến bao nhiêu thối nát bất công như thế này đây.
Phải đòi hỏi một chế độ đa nguyên,
đa đảng, đại diện đầy đủ cho 80 triệu dân... Mỗi người góp một phần, chúng ta tiếp tục đòi
hỏi cho bằng được tự do, nhân quyền và công lý...
Sau khi Hoa Kỳ rút tên Việt Nam
Cộng Sản ra khỏi danh sách CPC (Countries of Particular Concern) tức các quốc
gia đàn áp tôn giáo đặc biệt quan tâm, phóng viên Ý Lan có phỏng vấn Hòa Thượng
về sự kiện đặc biệt này. Ý kiến của Hòa Thượng rất đáng được nghiền ngẩm:
"CPC chỉ là một món hàng người Mỹ
đặt ra đó để đòi hỏi, để trả giá với nhau... Do đó cái CPC đưa ra hay đưa vô
tôi không quan tâm. Bởi vì chúng tôi không đặt cái sự tồn vong của GHPGVNTN vào
CPC, mà chúng tôi đặt sự tồn vong của Phật Giáo Việt Nam nói chung và GHPGVNTN
giữa lòng dân tộc Việt Nam...
Cho nên, GHPGVNTN với cái truyền thống 2000 năm không làm chính trị.
Nhưng mà tuy không làm chính trị mà có đóng góp ý kiến xây dựng đất nước, xây
dựng dân tộc cho nhà vua biết đường nào có lợi ích cho dân tộc thì nhà vua nghe
mà làm...
Nhân đây tôi cũng xin đề nghị với các đảng phái, các tổ chức mới thành
lập đây, như Công Đoàn Độc Lập Việt Nam, Hiệp Hội Đoàn Kết Công Nhân, rồi Liên
Minh Dân Chủ Nhân Quyền Việt Nam, Đảng Dân Chủ XXI... mới thành lập đây. Tất cả
các vị đó đều mong muốn đất nước Việt Nam một ngày nào đó được dân chủ, tự do
và nhân quyền được tôn trọng. Thì bây giờ đây các vị đã hướng tới cái đích đó,
là đích cao cả, thì mình phải tự cứu mình...
Nhân đây tôi kêu gọi
tất cả các đoàn thể chính trị... kết hợp lại thành một khối cho thật mạnh. Đoàn
kết lại với nhau, bỏ hết các tị hiềm, nghi kị đi. Ngồi lại với nhau thật sự một
lòng, để tạo thành một sức mạnh, một đối trọng để nói thẳng, đặt thẳng vấn đề
với người Cộng sản Việt Nam: Các anh phải trả lại cái Quyền làm Người cho toàn
thể dân tộc 80 triệu dân đây! Không thể nô lệ hóa cái dân tộc này mã mãi được!
Anh đã nô lệ hóa nó 60 năm rồi. Bây giờ đến lúc các anh phải trả lại...
Đã đến lúc rồi, mình phải tõ ra
hành động cụ thể. Chẳng hạn đình công, chẳng hạn bãi thị, bất tuân lệnh. Đấy,
những cái đó (có) rồi người Cộng sản mới thấy được cái sức mạnh của nhân dân
như thế, họ mới chịu nói chuyện. Chú còn đòi suông, thì nó như kiểu làm chính
trị xa lông, xôi thịt, thì không bao giờ có tự do, dân chủ đâu. Mình phải tự
làm lấy, mình phải nắm lấy vận mệnh của mình để thay đổi thời đại, thay đổi
cuộc sống..."
Qua những việc làm và tư tưởng
biểu lộ trên đây chúng ta phải công nhận rằng Đại Lão Hòa Thượng Thích Quảng độ
là một lãnh tụ tôn giáo hết sức sáng giá của Việt Nam hiện nay. Với tinh thần
bất khuất, thắm nhuần dạo đức Bi Trí Dũng của nhà Phật, Ngài đã sáng suốt lèo
lái GHPGVNTN đi đúng truyền thống nhân bản dân tộc. Ngài không những là một
lãnh tụ xuất chúng của Phật Giáo mà còn là một bậc hiền sĩ xứng đáng được lưu
danh muôn thuở trong lịch sử văn hóa Việt Nam.
Hoàng Thuỵ Văn ghi chú: Trích tác phẩm Kỷ Niệm Giới Thiệu Thơ Văn của Tiến sĩ Nguyễn Thanh Liêm do Lê Văn Duyệt Foundation xuất bản năm 2009 tại Little Saigon, Nam California.
No comments:
Post a Comment