Monday, May 4, 2020

ĐẶC ĐIỂM CHIẾN TRANH 1954-1975 - Bài 2 - Trần Gia Phụng


ĐẶC ĐIỂM CHIẾN TRANH 
1954-1975 

(Nguồn internet: ảnh do blogger HTV thêm vào)


(Bài 2)
           
Trần Gia Phụng

Sau Bắc Vit Nam và khối cộng sn, là đặc điểm vì sao Nam Việt Nam và Hoa Kỳ tham chiến.

NAM VIỆT NAM: CHIẾN TRANH TỰ VỆ

Sau hiệp đinh Genève, ở Nam Việt Nam (NVN), chính phủ Ngô Đình Diệm dần dần ổn định tình hình, cải tổ quân đội, phát triển kinh tế, tiếp thu các cơ sở do Pháp chuyển giao, đón tiếp và tái định cư gần một triệu đồng bào di cư từ Bắc Việt Nam (BVN).  Cuộc trưng cầu dân ý ngày 23-10-1955 đưa thủ tướng Diệm lên làm quốc trưởng.  Ngày 26-10-1955, quốc trưởng Ngô Đình Diệm tuyên bố thành lập Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) theo tổng thống chế, do ông Diệm làm tổng thống đầu tiên..

Đối với BVN, ngày 10-8-1955, thủ tướng NVN Ngô Đình Diệm bác bỏ đề nghị của thủ tướng BVN Phạm Văn Đồng ngày 19-7-1955, yêu cầu mở hội nghị hiệp thương bắt đầu từ ngày 20-7-1955, để bàn về việc tổng tuyển cử, thống nhất đất nước. (Chính Đạo, Việt Nam niên biểu 1939-1975, tập I-C: 1955-1963, Houston, Nxb Văn Hóa, 2000, tr. 73.) Sau đó Phạm Văn Đồng nhiều lần đề nghị tiếp, nhưng đều bị chính phủ NVN từ chối vì hiệp định Genève chẳng có điều khoản nào về việc tổng tuyển cử thống nhất Việt Nam. (Đã viết trong bài trước, mục 1 về BVN.) Thế là BVN động binh tấn công NVN.

Không lẽ ngồi chờ chết, NVN không còn chọn lựa nào khác, phải tự vệ, chống cuộc xâm lăng của BVN  và khối CS.  Nam Việt Nam yếu thế, phải nhờ Hoa Kỳ viện trợ võ khí, quân nhu và cả bộ binh chiến đấu. Hoa Kỳ giúp NVN theo quyền lợi của Hoa Kỳ.  Sau hiệp định Paris (27-1-1973), Hoa Kỳ rút hết quân về nước, ngưng viện trợ cho VNCH. Quân đội VNCH một mình chiến đấu hữu hiệu chống CS và vẫn đứng vũng trong hai năm, cho đến khi hết nhiên liệu và đạn dược, mới chịu buông súng ngày 30-4-1975.

4.-  HOA KỲ: THAY ĐỔI CHÍNH SÁCH THEO CHIẾN LƯỢC TOÀN CẦU

Hoa Kỳ là một cường quốc, bang giao rộng rãi trên thế giới, luôn luôn giữ thế cân bằng chính trị (balance politique) của Hoa Kỳ với các nước đồng minh và các nước thuộc các khối chính trị khác. Chính sách của Hoa Kỳ ở NVN thay đổi tùy theo chiến lược ngoại giao toàn cầu của Hoa Kỳ.

Chiến lược Đông Á thập niên 50:  Đảng CS cầm quyền ở Trung Hoa tháng 10-1949, bắt đầu thách thức Hoa Kỳ ở Đông Á. Hoa Kỳ và Trung Cộng đụng độ tại chiến tranh Triều Tiên (1950-1953).  Sau khi tổng thống Dwight D. Eisenhower lên cầm quyền ngày 20-01-1953, Hoa Kỳ ký với Nam Triều Tiên Mutual Defense Treaty Between the United States and the Republic of Korea ngày 1-10-1953; với Trung Hoa Dân Quốc (Taiwan) Sino-American Mutual Defense Treaty ngày 2-12-1955, và với Nhật Bản Treaty of Mutual Cooperation and Security between the United States and Japan ngày 19-1-1960.  Hoa Kỳ quyết chận đứng Trung Cộng tiến ra Thái Bình Dương; nhằm bảo vệ các quần đảo đông bắc Thái Bình Dương tức phía tây Hoa Kỳ, từ Alaska đến California, là những căn cứ Hải quân phên dậu bảo vệ Hoa Kỳ.

Lúc đó, các nước Đông Dương bị ràng buộc vào điều 19 chương III của hiệp định Genève (20-7-1954), không liên minh quân sự với nước ngoài, nên NVN, Cao Miên và Lào được sắp vào nhóm được bảo vệ trong phụ bản của Hiệp ước Hỗ tương Phòng thủ Đông Nam Á  tại Manila (Phi Luật Tân), ngày 8-9-1954.

Vào cuối nhiệm kỳ 2 của tổng thống Eisenhower, phi cơ do thám U-2 của Hoa Kỳ, bay qua không phận Liên Xô ở cao độ 70,000 feet (21,3 Km), bị bắn rơi ngày 1-5-1960, gây cuộc khủng hoảng giữa Hoa Kỳ và Liên Xô. Phi công Francis Gary Powers, được thả năm 1962, đổi lấy một điệp viên Liên Xô bị bắt.

Chiến tranh lạnh đầu thập niên 60:  Sau khi tổng thống John F. Kennedy lên cầm quyền ngày 20-01-1961, liên tiếp xảy racác khủng hoảng Mỹ-Nga: 1)  Hoa Kỳ ủng hộ nghĩa quân Cuba chống Fidel Castro, đổ bộ Vịnh Con Heo tháng 4-1961, nhưng thất bại. 2)  Ngày 13-08-1961, Đông Đức xây bức tường ngăn chận giữa Đông và Tây Berlin.  Trong 2 ngày 27 và 28-8-1961, xe tăng Mỹ-Nga đối đầu căng thẳng tại trạm kiểm soát Charlie của Mỹ ở bức tường nầy.  Cuối cùng hai bên đồng rút quân. 3) Từ tháng 9-1962, Liên Xô và Cuba bắt đầu xây dựng các căn cứ hỏa tiễn ở Cuba, nhắm vào Hoa Kỳ.  Ngày 17-10-1962, Hoa Kỳ phát hiện việc nầy.Tuy xảy ra khủng hoảng, nhưng hai bên đều tự chế. Cuộc khủng hoảng kết thúc tháng 11-1962: Liên Xô rút lui hỏa tiễn khỏi Cuba. Hoa Kỳ rút lui hỏa tiễn khỏi Ý và Thổ Nhĩ Kỳ.

Sau cuộc khủng hoảng Đông Đức (8-1961), tổng thống Ngô Đình Diệm hai lần đề nghị Hoa Kỳ ký với VNCH một hiệp ước phòng thủ hỗ tương, nhưng Hoa Kỳ đều từ chối.  Tổng thống Diệm đề nghị lần đầu ngày 29-9-1961 với đô đốc Harry D. Felt, tư lệnh lực lượng Hoa Kỳ tại Thái Bình Dương. (Stanley Karnow, Vietnam A History, New York: The Viking Press, 1983, tr. 251), và lần hai với đại tướng Maxwell Taylor, tham mưu trưởng Liên quân Hoa Kỳ, đến Sài Gòn từ 18 đến 24-10-1961. (John S. Bowman, The Vietnam War, Day by Day, New York: Mallard Press, 1989, tr. 22.) Kennedy còn quyết định rút cố vấn ở NVN về Hoa Kỳ, nhưng chưa kịp thi hành thì ông bị ám sát ngày 22-11-1963.

Đối thủ của Kennedy, N. Khrushchev bị đảo chánh ngày 14-10-1964. Leonid Brezhnev lên thay, quay qua củng cố khối CS (vụ Tiệp Khắc), gây hấn với Trung Cộng (vụ Ussuri) và tăng cường viện trợ cho BVN.

Báo trước cho CSVN Hoa Kỳ tham chiến:  Phó tổng thống Lyndon B. Johnson lên cầm quyền từ 22-11-1963 đến 20-01-1969, thay đổi chính sách của Kennedy, quyết định đưa bộ binh tham chiến ở NVN.  Ngày 30-4-1964 ngoại trưởng Hoa Kỳ là Dean Rusk nhờ trưởng đoàn Canada trong Ủy Ban Kiểm soát Quốc tế (International Control Commission) là J. Blair Seaborn, đề nghị với BVN ngưng yểm trợ cho CS miền Nam, thì Hoa Kỳ sẽ viện trợ kinh tế cho BVN.  Khi gặp Phạm Văn Đồng tại Hà Nội ngày 18-6-1964, Seaborn cho BVN biết đề nghị của Hoa Kỳ và thêm rằng Hoa Kỳ không có ý tiêu diệt chế độ Hà Nội, mà chỉ muốn hòa bình. (Mark Moyar, sđd. tr. 307) Phạm Văn Đồng bác bỏ đề nghị của Hoa Kỳ.

Chiến tranh giới hạn:  Hoa Kỳ đưa bộ binh đến Đà Nẵng ngày 8-3-1965.  Trong chiến tranh Triều Tiên, Hoa Kỳ tấn công Bắc Triều Tiên để phòng thủ Nam Triều Tiên, tức lấy công làm thủ. Trung Cộng phản ứng, giúp Bắc Triều Tiên, đẩy lui quân Hoa Kỳ.  Lần nầy, Hoa Kỳ muốn tránh sự can thiệp của Trung Cộng, chỉ giúp VNCH phòng thủ ở NVN. Điều nầy nằm trong kế hoạch “chiến tranh giới hạn”. Đô đốc Ulysses Simpson Grant Sharp, tư lệnh Lực lượng Hoa Kỳ tại Thái Bình Dương (từ 1964 đến 1968) đã tiết lộ về chiến tranh giới hạn, tạm dịch như sau: “Chính phủ chúng ta [Hoa Kỳ] lập lại rõ ràng nhiều lần rằng các mục tiêu tranh chấp ở Việt Nam rất giới hạn.  Chúng ta không được tiêu diệt chế độ Hà Nội, không cưỡng ép dân chúng Bắc Việt Nam phải thay đổi nhà cầm quyền, và không tàn phá Bắc Việt Nam.  Chúng ta chỉ đơn giản muốn Bắc Việt Nam ngừng điều khiển và yểm trợ Việt cộng nổi dậy ở trong Nam và đưa lực lượng Bắc Việt Nam trở ra Bắc.  Chiến lược điều khiển chiến tranh của chúng ta phản ảnh những mục tiêu giới hạn trên đây.” (William D. Pawley & Richard R. Tryon, Jr., Why the Communists are Winning as of 1976 and How They Lost in 1990, http://www.gratisbooks.com/.)

Thật rất khó khăn khi phòng thủ một vùng rộng lớn nhiều rừng núi như NVN để đối phó với chiến tranh  du kích của CS.  Muốn chống du kích, thì phải chận đứng nguồn tiếp tế cho du kích. Không được tiếp liệu, du kích sẽ thiếu điều kiện để họat động.  Nếu không đánh BVN, thì BVN liên tục tiếp tế cho CS ở NVN, quanh năm nuôi dưỡng du kích CS ở NVN, nên khó có thể tiêu diệt hết được du kích CS ở NVN.

Ngoài việc giới hạn mục tiêu, bộ Quốc phòng Hoa Kỳ còn buộc quân đội của mình phải tuân thủ những quy tắc tham chiến (rules of engagement) tức những quy tắc ứng xử khi lâm chiến, như một thứ cẩm nang chiến tranh.  Những quy tắc tham chiến còn nhằm ngăn ngừa và giới hạn những ngẫu biến có thể làm bùng nổ những tranh chấp bất ngờ ở vùng biên giới Hoa Việt hay vùng phi quân sự (vĩ tuyến 17), nhất là do những hoạt động của Không quân. (Spencer C. Tucker, Encyclopedia of the Vietnam War, a Political,  Social, and Military History, Vol. two, Santa Barbara, California: ABC-CLIO, 1998, tt. 625-626.)
Những quy tắc nầy do bộ Quốc phòng Hoa Kỳ soạn thảo, thay đổi, thêm bớt tùy hoàn cảnh và giai đoạn, quy định những hạn chế phức tạp mà quân đội Hoa Kỳ phải tuân hành ở Đông Dương.(J. Terry Emerson, How Rules of Engagemnet Lost Vietnam War, Human Events, Vol. 45, No. 20, May 18, 1985.) 

Những quy tắc tham chiến hạn chế các mục tiêu tấn công và hạn chế nhiều nhứt là hoạt động của phi cơ. Trong chiến tranh hiện đại, quan trọng nhứt trên chiến trường là hỏa lực yểm trợ.  Quân đội CS dựa vào hỏa lực yểm trợ của xe tăng, thiết giáp.  Quân đội Hoa Kỳ dựa vào hỏa lực yểm trợ của phi cơ. Giới hạn hoạt động của phi cơ, sẽ giới hạn hỏa lực yểm trợ, làm giảm sức mạnh của quân đội Hoa Kỳ. Ai vi phạm sẽ bị trừng phạt tùy theo mức độ.  Ví dụ đại tướng John Daniel Lavelle, chỉ huy Không lực Hoa Kỳ tại Việt Nam, bị cất chức tháng 3-1972, giáng hạ hai cấp và về hưu trí, vì ông đã ra lệnh oanh kích những mục tiêu giới hạn. (John S. Bowman, sđd. tr.198.) (Xem thêm Google: John Daniel Lavelle.)

Tác giả Steve Farrell, trong sách Why We Lost in Vietnam - The Untold Story, cho rằng “Những quy tắc nầy bảo đảm rằng chúng ta [Hoa Kỳ] không thể thắng, và cộng sản không thể thua.” (Steve Farrell, Why We Lost in Vietnam - The Untold Story, University of Toronto, School of Continuing Studies, The Moral Liberal.) Thượng nghị sĩ Barry Goldwater, bang Arizona, gọi đây là “no win policy” (chính sách không thắng). (The Bryan Times, Thursday April 17, 1975, tr. 6. http://news.google.com/newspapers.)

Đánh trận mà không thắng không thua để làm gì thì Hoa Kỳ lúc đó không cho biết lý do, nhưng chắc chắn chiến tranh sẽ kéo dài trên chiến trường NVN; và Hoa Kỳ có thời gian tiêu thụ cho hết số võ khí tồn kho của Hoa Kỳ từ thời thế chiến thứ hai và thời chiến tranh Triều Tiên (1950-1953), thử nghiệm một số võ khí mới của Hoa Kỳ (súng M16 hay AR15, phi cơ B52, bom chùm …), và theo dõi, nghiên cứu những loại võ khí mới của Liên Xô viện trợ cho quân đội CS sử dụng ở Việt Nam (súng AK-47, xe tăng T54...).

Hoa Kỳ ngăn cản đề nghị bắc tiến của Quân đội VNCH:  Theo các tướng lãnh VNCH, muốn chận đứng du kích CS ở NVN, thì phải tấn công BVN để BVN ngưng tiếp tế cho CSNVN, nhưng đều bị Hoa Kỳ chận đứng.  1) Ngày 19-7-1964, thủ tướng Nguyễn Khánh công khai hô hào bắc tiến. (John S. Bowman, sđd. tt.  42.). Kết quả, Nguyễn Khánh bị các tướng trẻ đẩy ra nước ngoài làm đại sứ.

2) Ngày 1-12-1965, trung tướng Nguyễn Chánh Thi, tư lệnh Vùng I Chiến thuật kiêm tư lệnh Quân đoàn I viết thư cho chính phủ đưa đề nghị bắc tiến,và đề nghị với cả Tòa đại sứ Mỹ ở Sài Gòn. (Nguyễn Chánh Thi, Việt Nam, một trời tâm sự, California: Nxb. Anh Thư, 1987, tt. 319-334.).  Kết quả, sau vụ biến động miền Trung, tướng Thi được đưa qua Hoa Kỳ chữa bệnh thối mũi tháng 7-1966.

3) Theo đại tướng Cao Văn Viên, vào năm 1966, ông đưa ra một chiến lược 7 điểm, trong đó điểm thứ 6 là đổ bộ lên Vinh (tỉnh Nghệ An) hay Hà Tĩnh (tỉnh Quảng Bình), nhưng không được thi hành. (Cao Văn Viên, Những ngày cuối của Việt Nam Cộng Hòa, Virginia: Vietnam bibliography, 2008, tr. 288.)

4) Cũng trong năm 1966, nhận thấy quân BVN qua vùng phi quân sự (Quảng Trị), tướng William Westmoreland đề nghị với bộ Quốc phòng Hoa Kỳ lập phòng tuyến KANZUS, chận ngang khu phi quân sự. KANZUS tức Korea, Australia, New Zealand và United States. Đại sứ các nước nầy tại Sài Gòn đều chấp thuận kế hoạch KANZUS, nhưng bị Washington DC bác bỏ. (William C. Westmoreland, A Soldier Reports, New York: Da Capo Press, 1989, tr. 197.)

5) Khi mở cuộc hành quân Lam Sơn 719, tháng 1-1971, tổng thống Nguyễn Văn Thiệu đề nghị VNCH đưa một sư đoàn tiến qua bắc vĩ tuyến 17 nhằm đánh lạc hướng CS, nhưng Hoa Kỳ từ chối. (Nguyễn Tiến Hưng và J.L. Schecter , Hồ sơ mật dinh Độc Lập, Los Angeles: C & K Promotions, Inc., tr. 75 và tr. 116.)

6) Trong mùa hè năm 1972, BVN tràn quân qua vĩ tuyến 17, tấn công VNCH.  Quân đoàn I đề nghị đánh thẳng qua sông Bến Hải, nhưng cố vấn Mỹ không đồng ý.  Lo ngại Quân đoàn I có thể tự ý tiến quân ra BVN, các cố vấn Mỹ giới hạn việc tiếp vận cho Lữ đoàn 1 Kỵ binh 20 gallons xăng mỗi ngày cho một xe, đạn pháo binh chỉ được bắn 5 quả mỗi ngày cho một khẩu và ngưng tiếp tế lương khô cho Lữ đoàn. (Hà Mai Việt, Thép và Máu, Thiết giáp trong chiến tranh, Texas: 2005, tr. 103.)

Hoa Kỳ thay đổi sách lược và lui quân:  Trong khi cuộc chiến đang tiếp diễn, bên trong Hoa Kỳ, phong trào phản chiến nổi lên mạnh mẽ, thì vào cuối thập niên 60, người Hoa Kỳ nhận ra rằng: 1) Chiến tranh giới hạn của Hoa Kỳ ở NVN không thành công, số tử vong của quân đội Hoa Kỳ càng ngày càng cao. 2) Dựa trên quan niệm địa chính trị học (geopolitics), các chính trị gia Hoa Kỳ thấy rằng "Bắc Việt không thể tàn phá Hoa Kỳ trong vòng nửa giờ, hoặc tiêu hủy các thành phố, giết một nửa dân số, nhưng với hỏa tiễn nguyên tử, Liên Xô có thể làm được việc đó.  Trung Quốc tuy chưa ngang tầm của Liên Xô vì ít võ khí nguyên tử, nhưng lại đe dọa phần còn lại của Á châu vì ý hệ chính trị cứng rắn và vì dân số đông đảo của họ… Hy sinh Nam Việt Nam mới thật là đáng giá.  Còn hơn là hao phí thêm nhiều sinh mạng người Mỹ và hàng tỷ mỹ kim để chống đỡ Nam Việt Nam mà ít hy vọng thắng lợi, tại sao không thỏa thuận thua cuộc để đổi lấy sự mở cửa Trung Quốc nhắm làm yếu đi kẻ thù thực sự là Liên Xô." (Roger Warner, Shooting at the Moon, Steerforth Press, South Royalton, Vermont, 1996, tt. 333- 334, tr. 336.) 

Trong cuộc bầu cử tổng thống tháng 11-1968, ứng cử viên Richard Nixon (Cộng Hòa) hứa sẽ chấm dứt chiến tranh, đem lại “hòa bình trong danh dự” cho Hoa Kỳ. Đắc cử và cầm quyền từ 20-1-1969,  Nixon đưa ra kế hoạch “Việt Nam hóa chiến tranh”, chuyển giao trách nhiệm chiến đấu cho quân đội VNCH, nhưng thực tế là Hoa Kỳ bỏ cuộc, rút quân về nước.  Nixon còn tìm cách liên lạc với Trung Cộng.

Cố vấn An ninh Quốc gia Hoa Kỳ lúc đó là Henry Kissinger, một người Mỹ gốc Do Thái, bí mật đến Bắc Kinh ngày 9-7-1971.  Trong cuộc gặp thủ tướng Trung Cộng là Châu Ân Lai, về vấn đề Việt Nam,  Kissinger cho Châu Ân Lai biết: “Chúng tôi sửa soạn rút quân hoàn toàn ra khỏi Đông Dương và ấn định ngày giờ rút quân, nếu có một cuộc ngưng bắn và phóng thích tù binh của chúng tôi.  Thứ đến, chúng tôi sẽ để cho giải pháp chính trị của Nam Việt Nam tự diễn biến và phó mặc cho một mình người Việt.” (Nguyễn Tiến Hưng, Tâm tư tổng thống Thiệu, California: Cơ sở Hứa Chấn Minh, 2010, tr. 617.) Trong cuộc họp hôm sau, Kissinger nói thêm: “Điều chúng tôi yêu cầu là một khoảng thời gian chuyển tiếp giữa sự rút quân và diễn biến chính trị.  Không phải là để chúng tôi có thể trở vào lại [Việt Nam], nhưng chúng tôi có thể để cho dân tộc Việt Nam và dân tộc các nơi khác ở Đông Dương tự quyết định lấy số phận của họ... Nếu sau khi quân đội Mỹ rút lui hoàn toàn, mà các dân tộc Đông Dương thay đổi chính quyền của họ, Hoa Kỳ sẽ không can thiệp.” (Nguyễn Tiến Hưng, sđd. tr. 624.)

Tại Đại hội đồng thứ 26 của Liên Hiệp Quốc, Hoa Kỳ không phủ quyết cuộc biểu quyết ngày 25-10-1971, theo đó Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa (CHNDTH) tức Trung Cộng được cử giữ ghế đại biểu Trung Hoa tại LHQ, thay cho Trung Hoa Dân Quốc (Đài Loan).  Ghế Trung Cộng tại LHQ là ghế hội viên thường trực, có quyền phủ quyết tại Hội đồng Bảo an LHQ.

Trong cuộc viếng thăm Trung Cộng từ 21-2-1972, tổng thống Hoa Kỳ Richard Nixon họp lần đầu với Châu Ân Lai,ngày 22-2-1972, đã đề cập ngay đến vấn đề Việt Nam: “Chúng tôi đã đề nghị rút hết người Hoa Kỳ, mà không để cái “đuôi” đàng sau - như cách nói của Thủ tướng - và ngưng bắn trên toàn Đông Dương, miễn là chúng tôi lấy lại được tù binh.  Sau đó, chúng tôi sẽ để cho dân chúng ở đó tự quyết định.” (Nguyễn Tiến Hưng, sđd. tr. 627.) Trước khi phái đoàn Hoa Kỳ về nước, Nixon và Châu Ân Lai ký kết bản "Thông cáo chung" tại Thượng Hải (Shanghai) ngày 28-2-1972, gồm 16 điều.  Quan trọng nhứt là những điều hai bên công nhận lẫn nhau, và Hoa Kỳ công nhận chỉ có một nước Trung Hoa.

Sau khi Richard Nixon về nước, Châu Ân Lai đến Hà Nội ngày 4-3-1972, thuật lại cho giới lãnh đạo đảng Lao Động nội dung cuộc gặp gỡ giữa Trung Cộng và Hoa Kỳ, báo cho BVN biết Hoa Kỳ sẽ rút quân về nước, đồng thời tái khẳng định sự ủng hộ của Trung Cộng đối với BVN.  (Qiang Zhai, sđd. tr. 200.) 

Từ 19 đến 23-6-1972 Henry Kissinger qua Bắc Kinh lần nữa. Trong cuộc gặp ngày 22-6-1972, Kissinger mở lời với Châu Ân Lai rằng: “Nếu chúng tôi có thể sống với một chính phủ cộng sản ở Trung Hoa, chúng tôi phải có khả năng chấp nhận điều đó ở Đông Dương.” (Nguyễn Tiến Hưng, sđd. tt. 638-642.)  Kissinger còn nói thẳng ra rằng việc CSVN xâm lăng NVN bằng võ lực có thể được chấp nhận nếu xảy ra vào một thời gian lâu đủ sau khi Hoa Kỳ rút quân.(Nguyễn Tiến Hưng, sđd. tt. 638-642.)

Trong khi đó, Hoa Kỳ tiếp tục thúc đẩy cuộc hòa đàm Paris giữa Việt Nam Cộng Hòa, Hoa Kỳ, Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa và Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam Việt Nam.  Ngày 27-1-1973, bốn bên ký Hiệp định chấm dứt chiến tranh và lập lại hòa bình ở Việt Nam (Agreement on Ending the War and Restoring Peace in Vietnam). Cũng trong ngày 27-1-1973, Hoa Kỳ bãi bỏ luật động viên ở Hoa Kỳ. Sau đó, Hoa Kỳ đưa hết tù binh bị BVN cầm giữ vế nước, yên lòng dân chúng Mỹ. Phong trào phản chiến chấm dứt.

Sau hiệp định Paris, Hoa Kỳ rút hết quân về nước. Hoa Kỳ cũng giảm thiểu gần như chấm dứt viện trợ cho VNCH. Vào tháng 2-1975, các loại đạn dược tồn kho VNCH chỉ đủ dùng trong khoảng 30 ngày. (Cao Văn Viên, sđd. tr. 92.) Trong khi cả khối CS đang dồn viện trợ cho BVN tấn công NVN, và VNCH một mình can đảm tiếp tục chiến đấu chống CS, thì bộ trưởng Ngoại giao của Hoa Kỳ là Henry Kissinger lại trù ẻo VNCH: “Tại sao họ không chết lẹ đi cho rồi?  Điều tệ nhất có thể xảy ra là họ cứ sống dai dẳng hoài.”(Lời của Henry Kissinger nói với Ron Nessen. Ron Nessen thuật lại trong sách It Sure Looks Different from the Inside, Chicago: Playboy Press, 1978, tr. 98.  Nguyễn Tiến Hưng và Jerrold L. Schecter trích dẫn, Hồ sơ mật dinh Độc Lập, Los Angeles: C & K Promotions, Inc., 1987, tr. 512.)

KẾT LUẬN

Do CSBVN gây chiến, nên VNCH phải chiến đấu để tự vệ.  Vì yếu thế trước sức tấn công của BVN và cả khối CS, VNCH phải nhờ Hoa Kỳ giúp đỡ và viện trợ.  Hoa Kỳ đến giúp VNCH theo những tính toán riêng của Hoa Kỳ trong việc ngăn chận sự bành trướng của chủ nghĩa CS, nhứt là Trung Cộng xuống Đông Nam Á.

Hoa Kỳ là nước tự do dân chủ. Tự do dân chủ là điều ai cũng thích, nhưng tự do dân chủ cũng có điểm bất lợi trong chiến tranh, vì chính sách thay đổi theo nhiệm kỳ của từng đời tổng thống.  Tổng thống Eisenhower chủ trương cứng rắn, bảo vệ Lào để bảo vệ NVN.  Kennedy mềm mỏng sau vụ Vịnh Con Heo (tháng 4-1961), ký hiệp ước trung lập Lào năm 1962, khiến cho quân BVN dễ xâm nhập vào Lào, rồi tiến xuống NVN.  Johnson tăng quân, đẩy cuộc chiến lên cao độ. Nixon đưa ra Việt Nam hóa để rút quân.

Lạ lùng là khi đưa quân vào NVN, Hoa Kỳ báo trước cho BVN. Khi rút quân, Hoa Kỳ báo cho Trung Cộng biết, thì cũng như báo trước cho BVN biết.  Hoa Kỳ chủ trương chiến tranh giới hạn, đưa ra những quy tắc tham chiến, không đánh BVN bằng Bộ binh, nên không chận được nguồn tiếp tế cho CS ở NVM và không tiêu diệt được du kích CS ở NVN.  Hoa Kỳ chỉ muốn làm thế nào cho CS rút quân về BVN, mà hai bên không thắng và không thua.  Khi bắt tay được với Trung Cộng, thì Hoa Kỳ bỏ rơi NVN. 

Đành rằng Hoa Kỳ là một cường quôc trên thế giới, nền ngoại giao rất đa đoan, phức tạp. Chính sách của Hoa Kỳ dưới thời bất cứ tổng thống nào cũng chỉ phục vụ quyền lợi của dân chúng Hoa Kỳ, nhưng dù sao, như lời tổng thống Trần Văn Hương nói với đại sứ Hoa Kỳ Graham Martin trước khi chia tay vào tháng 4-1975: “Đã đến đỗi như vậy, Hoa Kỳ cũng có phần trách nhiệm trong đó.” (Trần Đông Phong, Việt Nam Cộng Hòa 10 ngày cuối cùng, California: Nxb. Nam Việt, 2006, tr. 353.)

Chính quyền Hoa Kỳ hành động vì quyền lợi của Hoa Kỳ là chuyện hoàn toàn hợp lý với công dân Hoa Kỳ, nhưng điều nầy cần phải cân bằng với quyền lợi của đồng minh, và tránh gây tác hại cho các nước đồng minh trong cuộc.  Nếu không, Hoa Kỳ có thể làm mất niềm tin nơi các đồng minh của Hoa Kỳ, chẳng những ở Đông Nam Á mà cả trên thế giới.

TRẦN GIA PHỤNG
(Texas, tháng 4-2020)

ĐẶC ĐIỂM CHIẾN TRANH 1954-1975 - Bài 1 - Trần Gia Phụng


ĐẶC ĐIỂM CHIẾN TRANH 
1954-1975 

(Bài 1)
                                                                
Trần Gia Phụng

Chiến tranh Việt Nam 1954-1975 rất đa dạng. Đặc điểm cuộc chiến nầy cũng chính là đặc điểm lý do vì sao các nước tham chiến.  Xin bắt đầu với Bắc Việt Nam (BVN) vì BVN là đơn vị gây ra cuộc chiến. 

1.-   BẮC VIỆT CỘNG SẢN: CHIẾN TRANH XÂM LƯỢC VÀ BÀNH TRƯỚNG

Nửa tháng trước hiệp định Genève (20-7-1954), trong cuộc họp tại Liễu Châu (Quảng Tây, Trung Cộng), từ 3 đến 5-7-1954, thủ tướng Trung Cộng Châu Ân Lai khuyên Hồ Chí Minh (HCM) chôn giấu võ khí và cài cán bộ, đảng viên cộng sản (CS) ở lại Nam Việt Nam (NVN) sau khi đất nước bị chia hai để chuẩn bị tái chiến.(Tiền Giang, Chu Ân Lai dữ Nhật-Nội-Ngõa hội nghị [Chu Ân Lai và hội nghị Genève] Bắc Kinh: Trung Cộng đảng sử xuất bản xã, 2005, Dương Danh Dy dịch, tựa đề là Vai trò của Chu Ân Lai tại Genève năm 1954, chương 27 "Hội nghị Liễu Châu then chốt".) (Nguồn: Internet).Hồ Chí Minh đồng ý.

Trong số những cán bộ CS ở lại NVN sau hiệp định Genève, có những cán bộ cao cấp như Lê Duẩn, Võ Văn Kiệt, Mai Chí Thọ, Cao Đăng Chiếm.(Huy Đức, Bên thắng cuộc, tập I: Giải phóng, New York: Osinbook, 2012, tt. 270-273.)  Như thế, chẳng những CS vi phạm hiệp định Genève, mà CS còn nuôi sẵn chủ trương gây chiếnvới NVN trước khi ký kết hiệp định đình chiến Genève.

Sau hiệp định Genève, lực lượng CS cài lại ở NVN quấy phá và khủng bố ở NVNngay từ năm 1954. Cuộc khủng bố chấn động nhứt của CS là cuộc ám sát hụt tổng thống Ngô Đình Diệm khi tổng thống đến khánh thành Hội chợ Ban Mê Thuột ngày 22-2-1957. 

Trong khi đó ở BVN, cuộc cải cách ruộng đất đẵm máu từ tháng 6-1955 đến tháng 7-1956, giết hơn 172,000 người.(Đặng Phong chủ biên, Lịch sử kinh tế Việt Nam 1945-2000, tập II: 1955-1975, Hà Nội: Nxb. Khoa Học Xã Hội, 2005, tr. 85.) Trường Chinh từ chức tổng bí thư.  Hà Nội gọi Lê Duẩn ra BVN phụ tá cho HCM.Vào cuối năm 1958, Lê Duẩn được gởi vào NVN để nghiên cứu tình hình. Khi trở ra BVN, Lê Duẩn viết bản báo cáo, đề nghị đánh chiếm NVN bằng võ lực. (Stanley Karnow, Vietnam A History, New York: The Viking Press, 1983, tr. 237-238.)  Bản báo cáo của Lê Duẩn là nền tảng của quyết định hội nghị Trung ương đảng Lao Động ngày 13-5-1959, đưa ra nghị quyết thống nhất đất nước bằng võ lực và đưa miền BVN tiến lên xã hội chủ nghĩa.  (Báo Nhân Dân, Hà Nội ngày 14-5-1959.)

Từ tháng 2 đến tháng 4-1958, tại Genève, Liên Hiệp Quốc họp để bàn về luật biển, đưa ra bốn quy ước về luật biển (United Nations Convention on Law of the Sea, viết tắt là UNCLOS).  Lúc đó chưa phải là thành viên của LHQ, nên Trung Cộng không được tham dự hội nghị.Vì vậy, Trung Cộng tự ý công bố quyết định về hải phận ngày 4-9-1958, trong đó điều 1 và điều 4ghi rằng hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa trong Biển Đông là của Trung Cộng, trong khi hai quần đảo nầy thuộc chủ quyền NVN. Đây là công bố của Trung Cộng cho thế giới biết lập trường của Trung Cộng về hải phận, mà không cần nước nào trả lời.

Để lấy lòng Trung Cộng, Phạm Văn Đồng, thủ tướng BVN, với sự đồng ý của HCM và Bộ chính trị, ký quốc thư ngày 14-9-1958 tán thành quyết định trên của Trung Cộng.   Năm sau, Phạm Văn Đồng qua Bắc Kinh tháng 10-1959 cầu viện.  Đáp lại, tháng 11-1959, Trung Cộng đưa một phái đoàn sang BVN trong hai tháng, nghiên cứu tất cả những nhu cầu cần thiết của BVN.  Tháng 5-1960, các nhà lãnh đạo BVN và Trung Cộng hội họp liên tiếp ở Hà Nội và Bắc Kinh để thảo luận chiến lược tấn công NVN. (Qiang Zhai, China & the Vietnam Wars, 1950-1975, The University of Carolina Press, 2000, pp. 82-83.)

Được Trung Cộng hứa hẹn viện trợ, đảng Lao Động họp đại hội III tại Hà Nội, từ 5-9 đến 10-9-1960, công bố hai mục tiêu lớn là: 1) Xây dựng BVN tiến lên xã hội chủ nghĩa. 2) Giải phóng NVN bằng võ lực; nghĩa là BVN quyết định động binh đánh chiếm NVN.Để phát động chiến tranh, đảng Lao Động đưa ra hai chiêu bài:  1) Thống nhất đất nước. 2) Chống Mỹ cứu nước.
Về viêc thống nhất đất nước, BVN tố cáo NVN không tôn trọng hiệp định Genève về việc tổ chức tổng tuyển cử năm 1956. Tuy nhiên hiệp định Genèvekhông có điều khoản nào quy định việc tổng tuyển cử để thống nhất đất nước. (Xin mời vào Google đọc kỹ lại hiệp định Genève.)  Việc tổng tuyển cử chỉ được nêu ra trong điều 7 của bản "Tuyên bố cuối cùng của Hội nghị Genève 1954 về vấn đề lập lại hòa bình ở Đông Dương" ngày 21-7-1954.  Không nước nào ký tên vào bản tuyên bố nầy, nghĩa là bản tuyên tố chỉ có tính cách gợi ý hay đề nghị, mà không có tính cách bắt buộc phải thi hành (cưỡng hành).

Về liên lạc với Mỹ (Hoa Kỳ), từ năm 1945, cơ quan tình báo Hoa Kỳ OSS (Office of Strategic Services), tiền thân của C.I.A. (Central Intelligence Agency), đã giúp HCM và Việt Minh, mặt trận của đảng CS.  Sau khi đảng CS cướp chính quyền ở Hà Nội và HCM thành lập nhà nước VNDCCH ngày 2-9-1945, thì OSS lặng lẽ rút lui do tổng thống Hoa Kỳ Harry Truman thay đổi chủ trương của tổng thống Roosevelt, bỏ ngõ Đông Dương cho Pháp trở lui.  Từ đó, giữa Hoa Kỳ và CSVN không còn liên lạc với nhau.

Sau hội nghị Liễu Châu, trở về lại Thái Nguyên, HCM đưa ra chủ trương chống Mỹ tại hội nghị lần thứ 6 Ban Chấp hành TƯĐ Lao Động ngày 15-7-1954, và cho rằng “Mỹ không những là kẻ thù của nhân dân thế giới, mà Mỹ đang biến thành kẻ thù chính và trực tiếp của nhân dân Việt Miên Lào…” (Hồ Chí Minh toàn tập tập 7: 1953-1955, Hà Nội: Nxb. Chính Trị Quốc Gia, 2000, tt. 314-315.) Nghĩa là chủ trương chống Mỹ cứu nước cũng đã được HCM đưa ra trước cả hiệp định Genève ngày 20-7-1954.

Tuy tuyên bố “Mỹ đang biến thành kẻ thù chính và trực tiếp của nhân dân Việt Miên Lào”, nhưng HCM không giải thích cụ thể vì sao tự nhiên Mỹ trở thành kẻ thù chính của ba nước Đông Dương.Lúc đó Mỹ chưa đưa quân vào NVN.  Đây phải chăng chính là kết quả mật đàm giữa HCM và Châu Ân Lai tại Liễu Châu, hoặc điều kiện của Châu Ân Lai đưa cho HCM để CSVN được Trung Cộng tiếp tục viện trợ?

2.-   CÁC NƯỚC CỘNG SẢN:  MỖI NƯỚC MỘT KẾ HOẠCH

Về các nước CS, có các điểm đáng chú ý: Thứ nhứt, các chế độ CS đều độc tài, tự quyết định chủ trương, chính sách nhà nước mà không cầnhỏi dân ý hay quốc hội. Thứ hai, khi muốn viện trợ, đảng CS tự ý quyết định, mà không xin ý kiến quốc hội như các nước dân chủ. Thứ ba, sự liên lạc giữa đảng với đảng là căn bản trong sự giao thiệp giữa các nước CS.  Ví dụ đảng CS Tàu nói chuyện với đảng CSVN. Đảng CSVN ra lệnh cho nhà nước CS Việt thi hành, không theo thể thức giữa quốc gia với quốc gia. Ngoại giao giữa đảng với đảng hiện vẫn được áp dụng giữa Trung Cộng và CSVN. Ví dụ hội nghị Thành Đô tháng 9- 1990 chỉ là cuộc họp giữa đại diện 2 đảng. Kết quả không được đưa ra quốc hội duyệt y, nhưng nhà nước CSVN phải thi hành, ví dụ thay đổi lãnh đạo CSVN năm 1991, thay đổi hiến pháp ngày 15-4-1992…

TRUNG CỘNG:  BẢO VỆ BIÊN GIỚI – NHÌN XUỐNG ĐÔNG NAM Á

Nước CS đầu tiên giúp BVN để tấn công NVN là Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa (CHNDTH) hay Trung Cộng.  Từ năm 1956, Trung Cộng chống lại chủ trương "sống chung hòa bình" giữa các nước không cùng chế độ chính trị do bí thư thứ nhứt đảng CSLX Khrushchev đưa ra.  Phía bắc, phía tây và tây nam, Trung Cộng vừa bị núi non hiểm trở, vừa bị Liên Xô và Ấn Độ chận đứng.  Phía đông là Thái Bình Dương với hàng rào ba nước đồng minh của Hoa Kỳ và ký hiệp ước phòng thủ song phương với Hoa Kỳ là Nam Triều Tiên, Nhật Bản và Trung Hoa Dân Quốc tức Đài Loan (Taiwan).  Bị bao vây ba mặt, Trung Cộng rất lo ngại bị cô lập và nhứt là lo ngại bị Hoa Kỳ tấn công hoặc chận luôn ở biên giới phía nam.

Sau khi thủ tướng BVN là Phạm Văn Đồng ký quốc thư ngày 14-9-1958, tán thành công bố về hải phận của Trung Cộng (đã viết ở trên), Trung Cộng viện trợ tối đa cho BVN, nói là vì tình nghĩa quốc tế CS, nhưng thật ra Trung Cộng xem BVN là tiền đồn chống Mỹ, bảo vệ biên giới phía nam cho Trung Cộng.Trung Cộng còn muốn bảo vệ đường giao thông bằng đường sông, đường bộ, và đường hỏa xa dọc sông Hồng, từ các tỉnh vùng sâu của Trung Cộng là Vân Nam, Quý Châu qua Việt Nam ở Lào Cai, ra Biển Đông ở hải cảng Hải Phòng.  Đồng thời Trung Cộng còn muốn mở cánh cửa nhìn xuống Đông Nam Á.
Ngoài quân viện, từ tháng 6-1965 đến tháng 3-1968, Trung Cộng gởi sang BVN 320,000 quân, trú đóng ở các tỉnh và thành phố phía bắc Hà Nội, điều khiển các dàn súng phòng không, sửa chữa đường sá, cầu cống, đường xe lửa, bảo vệ các tỉnh phía bắc, nhằm giúp BVN kéo hết lực lượng xuống tấn công NVN.



Nguồn ảnh: The Blade, Toledo, Ohio: Thứ Ba 16-5-1989.
(Trích lại từ DCVOnline.net, ngày 13-8-2012.)

Khi tổng thống Hoa Kỳ Richard Nixon viếng thăm Trung Cộng, Nixon báo cho Trung Cộng biết rằng Hoa Kỳ sẽ rút quân khỏi NVN.Hoa Kỳ báo cho Trung Cộng biết việc Hoa Kỳ rút quân, thì không khác gì Hoa Kỳ báo cho BVN biết mà không báo cho NVN biết.  Sau đó Nixon ký thông cáo chung Thượng Hải ngày 28-2-1972 với thủ tướng Trung Cộng là Châu Ân Lai, công nhận chỉ có một nước Trung Hoa, thì Trung Cộng yên tâm rút quân ở BVN về nước sau hiệp định Paris ngày 27-1-1973.  Nhân cơ hội Hoa Kỳ ngưng viện trợ cho NVN và NVN đang chống đỡ những cuộc tấn công mạnh mẽ của BVN, Trung Cộng bất ngờ đánh chiếm Hoàng Sa của Việt Nam ngày 19-1-1974.  Bắc Việt Nam hoàn toàn làm ngơ trước cuộc xâm lăng của Trung Cộng. 

LIÊN XÔ:  QUÁ XA ĐÔNG NAM Á – VIỆN TRỢ GIỜ CHÓT

Về phía Liên Xô, trong đại hội lần thứ 20 đảng CSLX tháng 2-1956, bí thư thứ nhứt đảng CSLX Nikita Khrushchev đưa ra chủ trương “chung sống hòa bình” giữa các nước không cùng chế độ chính trị.  Vì Liên Xô đang chủ trương hòa dịu với các nước Tây phương, nên tháng 7-1959, khi HCM qua Moscow, đề nghị Liên Xô yểm trợ BVN để BVN tấn công NVN, thì Liên Xô khuyên HCM nên tiếp tục mưu tìm sự thống nhất trong hòa bình.(Mark Moyar, Triumph Forsaken, The Vietnam War, 1954-1965, New York: Cambridge University Press, 2006, tr. 83.)

Ngày 14-10-1964, Nikita Khruschev bị hội nghị Ban chấp hành Trung ương đảng CSLX đảo chánh một cách êm thắm.  Leonid Brezhnev lên thay, làm bí thư thứ nhứt đảng CSLX, đưa ra chủ tương cứng rắn trở lại, quyết định viện trợ và gởi quân sang giúp BVN. 

Tháng 3-1965, khi Hoa Kỳ bắt đầu đổ quân vào NVN thì cũng trong thời gian nầy, quân đội Liên Xô đến BVN khoảng 3,000 người, thuộc Phòng Tùy viên Quân sự Tòa đại sứ Liên Xô tại Hà Nội, đều là chuyên viên không quân, kỹ thuật phòng không và hỏa tiễn (BVN gọi là tên lửa).  Nhiệm vụ của chuyên viên LX là lắp ráp các bệ đặt hỏa tiễn đất đối không, huấn luyện tại chỗ phi công BVN lái các loại máy bay chiến đấu MIG-21 và SU. Ngoài ra còn có một số chuyên gia về hải quân và các binh chủng khác. Quân nhân Liên Xô bận thường phục, sống riêng biệt, thường dân BVN ít biết về sự hiện diện của quân đội Liên Xô.

Năm 1974, đại tướng Viktor Kulikov, thứ trưởng bộ Quốc phòng kiêm tổng tham mưu trưởng Hồng quân Liên Xô, đại diện cho Hồng quân Liên Xô, đến Hà Nội tham dự lễ kỷ niệm 30 năm thành lập quân đội CSVN ngày 22-12-1974.  Trước khi dự lễ, Viktor Kulikov dự họp hội nghị lần thứ 23 của ban Chấp hành Trung ương đảng Lao Động, khai mạc ngày 18-12-1974. Trong cuộc họp, Kulikov thông báo hai điều: 1) Theo tin tình báo của Liên Xô, Hoa Kỳ sẽ ngưng cung cấp viện trợ kinh tế và quân sự cho NVN, nên đây là cơ hội thuận tiện để đánh NVN.  2)  Liên Xô cam kết gia tăng viện trợ quân sự cho BVN, nhằm tấn công NVN. 

Ngay sau khi Kulikov về Moscow, viện trợ Liên Xô tăng gấp 4 lần trong các tháng đầu năm 1975.(Henry Kissinger, Years of Renewal, New York: Simon & Schuster, 1999, tr. 481.)  Rõ ràng Liên Xô nhận thấy sau khi Hoa Kỳ ngưng viện trợ quân sự cho VNCH, VNCH hết nhiên liệu, đạn dược để chiến đấu và sẽ thất bại, nên Liên Xô đầu tư mạnh mẽ cho tương lai ở Đông Nam Á.  Liên Xô còn vận động Cuba và các nước CS Đông Âu, viện trợ thêm cho BVN, góp sức với khối CS tấn công VNCH.

KẾT LUẬN

Bắc Việt Nam tức Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa vi phạm hiệp định Genève và chủ tâm gây chiến để xâm lược NVN, thực hiện nhiệm vụ bành trướng cho CS quốc tế, như Lê Duẩn, bí thư thứ nhứt đảng Lao Động, đã từng tuyên bố: “Ta đánh Mỹ là đánh cho Liên Xô, đánh cho Trung Quốc.” (Nguyễn Mạnh Cầm, ngoại trưởng CSVN từ 1991 đến 2000, trong cuộc phỏng vấn của đài BBC ngày 24-1-2013.)

Trung Cộng giúp đỡ CSVN nhắm dùng CSVN làm tiền đồn bảo vệ biên giới phía nam của Trung Cộng.  Mao Trạch Đông đã từng nói: “Không thể chỉ nói Trung Quốc giúp Việt Nam, phải nói rằng Việt Nam cũng giúp Trung Quốc là sự giúp đỡ lẫn nhau.”(La Quý Ba, “Mẫu mực sáng ngời của chủ nghĩa quốc tế vô sản”, trong Ghi chép thực về việc đoàn cố vấn quân sự Trung Quốc viện trợ Việt Nam chống Pháp, một nhóm tác giả, Bắc Kinh: Nxb Lịch sử đảng Cộng Sản Trung Quốc, 2002, Trần Hữu Nghĩa, Dương Danh Dy dịch. Montreal: Nxb. Tạp chí Truyền Thông (in lại), số 32 & 33, 2009, tr. 27.) Mao Trạch Đông muốn nói đến việc CSVN bảo vệ biên giới phía nam cho Trung Cộng.

Ngày 28-6-1958, Mao Trạch Đông tuyên bố với một nhóm tướng lãnh thân cận rằng: “Hiện nay, Thái Bình Dương không yên ổn.  Thái Bình Dương chỉ yên ổn khi nào chúng ta làm chủ nó.” (Jung Chang and Jon Halliday, The Unknown Story MAO, New York: Alfred A. Knopf, Publisher, 2005, tr. 426.)  Phát biểu nầy là khởi đầu cho chủ trương mới của Trung Cộng về Biển Đông và Thái Bình Dương.

Chẳng những tham vọng tiến ra Thái Bình Dương, mà Mao Trạch Đông còn nuôi tham vọng tiến xuống Đông Nam Á, và đã từng nói với các đại biểu đảng Lao Động Việt Nam ở hội nghị Vũ Hán năm 1963 rằng: “Tôi sẽ làm chủ tịch 500,000 bần nông đưa quân xuống Đông nam châu Á.”(Nxb. Sự Thật, Sự thật về quan hệ Việt Nam-Trung Quốc trong 30 năm qua, Hà Nội: 1979, tr. 16.). (Xem thêm: Nguyễn Trọng Vĩnh, BBC Vietnamese, ngày 1-12-2013.)

Còn Liên Xô ở quá xa Đông Nam Á.  Khi HCM qua Liên Xô xin viện trợ năm 1950, Stalin không giúp đỡ mà giao trách nhiệm cho Mao Trạch Đông. (Ghi chép thực về việc đoàn cố vấn quân sự Trung Quốc viện trợ Việt Nam chống Pháp, sđd. tr. 45.) Các lý do khiến Stalin lạnh nhạt với HCM: 1) Stalin không tin HCM là người CS trung kiên vì HCM đã cộng tác với OSS Hoa Kỳ năm 1945. 2) Stalin không tin những chế độ CS không do Stalin thành lập. 3) Lúc đó, Stalin đang ủng hộ đảng CS Pháp.  Nếu Stalin giúp CSVN chống Pháp, dân chúng Pháp sẽ không ủng hộ đảng CS Pháp. 4) Việt Nam ở viễn đông, quá xa Liên Xô. Liên Xô ít có quyền lợi ở vùng nầy.

Mãi đến gần cuối chiến tranh 46-54, Stalin mới viện trợ súng cối hạng nặng để CSVN tấn công Điện Biên Phủ.  Trong chiến tranh 54-75 cũng thế.  Sau biến cố Maddox ở Vịnh Bắc Việt (tháng 8-1964), Liên Xô mới viện trợ cho BVN, và sau đó tăng cường viện trợ khi biết chắc chắn Hoa Kỳ rút quân năm 1973.
(Còn tiếp)

TRẦN GIA PHỤNG
(Texas, tháng 4-2020)