Việt Minh Cướp
Chính Quyền:
Cả Nước Bị Lừa
Miền Nam Trong Những Ngày Định
Mệnh Tháng Tám và Chín 1945
73 Năm Nhìn Lại
Bộ máy chiến tranh, dưới trướng Hồ Chí Minh với danh nghĩa chống Pháp "Giải Phóng Dân Tộc", rồi chống Mỹ cứu nước "Giải Phóng Miền Nam", trong khi chiến tranh "đi đêm" với "kẻ thù", sau chiến tranh lộ nguyên hình là một tổ chức lừa: lừa cả một dân tộc, Việt Nam và lừa cả một thế giới, bài học chưa thuộc đối với những kẻ mang "bệnh tưởng". Con cháu nhiều đời của các "thủ lĩnh" trong ảnh đang truyền ngôi cho nhau, và dưới nhiều hình thức tẩu tán của cải cướp được từ tài sản quốc gia trước khi tuồn ra nước ngoài. Tiếp tục con đường tham vọng và tội ác, con cái của những nhân vật làm chuyện kinh động này được gởi ra giữ của và ăn chơi với danh nghĩa du học. (Nguồn ảnh: Internet - Hoàng Thuỵ Văn viết chú thích)
Tác giả: Phạm Cao Dương
Không có
lực lượng võ trang đáng kể, Việt Minh chỉ lợi dụng Thanh Niên Tiền Phong
làm lực lượng xung kích, qua
sự lừa đảo tập thể những người trẻ chỉ biết yêu nước và phụng sự quốc gia của
Miền Nam này và
họ đã thành công, giống hệt như ở Hà Nội, họ đã lợi dụng và cướp ngang cuộc
biểu tình ngày 17 tháng Tám của Tổng Hội Công Chức, được tổ chức để mừng độc lập và ủng hộ Chính
Phủ Trần Trọng Kim, không phải để ủng hộ Việt Minh.
Tôi
có đủ tin tức biết rõ lực lượng Việt Minh. Họ không có khí giới gì ráo. Tôi
đủ sức giữ Saigon, không để Việt Minh cướp chánh quyền một khi Bảo Đại
chưa thoái vị.
Huỳnh Văn Phương, Đệ Tứ
Tổng
Giám Đốc Công An Nam Kỳ
Thấy
hôn! Tôi không ăn có với kỷ niệm tưng bừng mà “xin cho tôi can”, đừng nói
quá lắm về tài giỏi mà như ông bà ta biểu, “nói năng phảiphân phân, cây đa
cậy thần,thần cậy cây đa”.
Cách
mạng Tháng Tám ở Saigon mà thắng lợi là cũng nhờ có cơ hội, điều kiện giúp
cho nó mà thôi.
Coi,
tôi là người tổ chức cướp chính quyền mà thiệt ra tôi có làm được gì
nhiều đâu.
Nguyễn Văn Trấn
Hung Thần Chợ Đệm
Hồi KýViết Cho Mẹ Và Quốc Hội
“…Người Việt
Nam nào đảm đương được và có hy vọng thành công, chúng tôi sẵn lòng tán
trợ…
“Nghĩa
là lúc nào chúng tôi cũng vẫn đặt nền độc lập quốc gia lên trên vấn đề
quyền tước…”
“Giết
thì cứ giết nhưng đừng kêu qua là Việt gian.”
Hồ Văn Ngà
Chủ
Tịch Việt Nam Quốc Gia Độc Lập Đảng
Mặt
Trận Quốc Gia Thống Nhất
Khi
nói tới hai biến cố Việt
Minh cướp chính quyền và Hồ Chí Minh tuyên bố Việt Nam độc lập thời
cuối tháng 8
và đầu tháng 9 năm 1945, những ngày người viết gọi là định mệnh đầy đau thương của dân tộc Việt Nam, bình thường người
ta chỉ nghĩ tới những gì xảy ra ở hai miền Bắc và miền Trung mà ít hay không nói tới những gì xảy ra ở
miền Nam. Đây là một thiếu sót vô
cùng quan trọng cần phải được điều chỉnh. Bài này nhằm phần nào bổ
khuyết cho sự thiếu sót kể trên với phần
mở đầu nói về sự khác biệt giữa xứ Nam Kỳ và hai xứ Bắc Kỳ và
Trung Kỳ, tiếp theo là những gì đã xảy ra ở Nam Kỳ trong những ngày
những ngày định mệnh này.
1. Khác Biệt giữa Nam Kỳ với Bắc và Trung Kỳ -
Khác với Bắc Kỳ và Trung Kỳ, Nam Kỳ từ sau hai
năm 1862 và 1867, rồi1874đã là thuộc địa của người Pháp, do đó nằm ngoài thẩm
quyền cai trị của Hoàng Đế Việt Nam và Triều Đình Huế, từ đó bị tách rời khỏi hai phần còn lại của đất nước. Nhưng đó chỉ là
về lý thuyết. Trên thực tế người Việt
miền Nam vẫn luôn luôn coi mình là người Việt Nam và lúc nào cùng hướng lòng
mình về cố quốc,đúng như Nguyễn Đình Chiểu đau đớn triền miên, khắc khoải và thất
vọng, tâm sự qua bài thơ viếng Phan Thanh Giản:
Ải Bắc ngày trông tin nhạn vắng,
Thành Nam đêm quạnh
tiếng quyên sầu
Cho tới ít ra là năm 1954 và nhiều năm sau đó, người Nam vẫn tự
nhận mình là Người Việt, còn gọi người Bắc là người Bắc. Họ đã nhiệt tâm
và liên tục, bằng cách này hay bằng cách khác, thế hệ này sang thế hệ khác, ủng
hộ các cuộc đấu tranh chung cho nền độc lập và thống nhất của cả dân tộc, điển
hình là các Phong Trào Đông Du và Duy Tân với các nhà ái quốc tiền bối Phan Bội
Châu và Phan Chu Trinh, rồi sau này là vận động hướng về quá khứ của các sinh
viên Nam Kỳ “du học” ở Đại Học Hà Nội trong nửa đầu của thập niên 1940. Đây là một nét đẹp nằm sâu trong tâm tư của
người dân Nam Kỳ đối với hai phần còn lại của nước Việt Nam, nói chung,
và đối với cuộc chiến đấu giành độc lập và thống nhất quốc gia trong thời gian
này, nói riêng. Về điểm này Luật Sư
Hoàng Cơ Thụy, tác giả Việt Sử Khảo Luận,
người có mặt ở Nam Kỳ trong những ngày này đã viết như sau:
Dân
chúng Nam Kỳ mặc dầu đã Tây hóa rất nhiều, song phản ứng rất hào hứng và đầy thiện cảm với bản tuyên ngôn độc
lập của vua Bảo Đại. […]
Toàn dân rất xúc động về nạn chết
đói thê thảm ở Bắc Việt, nên hô hào tổ chức chở
gạo để cứu đói.
Vậy nếu chưa có thống nhất về pháp
lý, thì đã có thống nhất trong tâm hồn. [1]
Điều
khác biệt là ở Nam Kỳ giới trí thức du học ở Pháp về đã đóng một vai trò quan
trọng trong sinh hoạt chính trị trong tiền bán Thế Kỷ 20, bên cạnh hai tôn giáo
lớn mang nặng tính cách Việt Nam là Cao Đài và Phật Giáo Hòa Hảo. Hai tôn giáo này đã có ảnh hưởng rất lớn đối
với quần chúng, đặc biệt là quần chúng nông thôn. Nói cách khác, các vận động giải phóng dân
tộc ở đây đa dạng hơn ở hai xứ Bắc và Trung Kỳ rất nhiều. Ảnh hưởng của Cộng Sản Đệ Tam Quốc Tế với
Trần Văn Giàu, Nguyễn Văn Tạo, Dương Bạch Mai, Trần Văn Thạch.. từ đầu, hay
luôn cả ảnh hưởng của Việt Minh sau này, so với nhóm Đệ Tứ của Tạ Thu Thâu có
thể nói là rất yếu ớt, không mạnh như ở miền Bắc. Về sự khác biệt này, Nguyễn
Long Thành Nam, tác giả của Phật Giáo Hòa
Hảo Trong Dòng Lịch Sử Dân Tộc đã ghi nhận như sau:
Quần
chúng miền Nam không bời rời như ở miền Bắc, mà đã thực sự đoàn ngũ hóa trong hai tổ chức tôn giáo quan trọng
là Cao Đài và Phật Giáo Hòa Hảo. Quần chúng đoàn ngũ hóa bao giờ cũng có
năng động tính và sẵn sàng để nhập cuộc hơn là quần
chúng tâm lý mà không có tổ chức. Các
đảng cách mạng xuất hiện tại miền Bắc như
Việt Nam Quốc Dân Đảng, Đại Việt, Duy Dân có thể được sự đồng minh ngưỡng mộ của quân chúng, nhưng không thể
chuyển động mau chóng khối quần chúng đó vào đấu
tranh, vì chưa thực hiện được bước sơ khởi là đoàn ngũ hóa quần chúng.
Ngoài ra, tại miền Nam các tổ chức
cách mạng mạng hình thức tôn gíáo, cho nên quy
tụ được đông đảo quần chúng, trong khi tại miền Bắc, các tổ chức cách mạng mang
hình thức chánh đảng, cho nên sự
quy tụ đảng viên giới hạn hơn.
Ngoài hai tổ chức tôn giáo Cao Đài,
Phật Giáo Hòa Hảo ở vào tư thế đã đoàn ngũ hóa
và sẵn sàng chiến đấu, tại miền Nam lúc đó còn có phong trào Thanh Niên Tiền Phong, và vài tổ chức võ trang, tuy ít người
nhưng cũng đã chuẩn bị sẵn sàng để nhập cuộc
chiến đấu. Đó là tổ chức Bình Xuyên, tổ
chức Nghĩa Sĩ Đoàn, tổ chức thanh Niên Ái
Quốc Đoàn, tổ chức Dân Quốc Quân của Việt Nam Quốc Dân Đảng miền Nam, nhóm Đệ Tứ, đảng Quốc Gia Độc Lập với thành phần
trí thức miền Nam.
Riêng đảng Cộng Sản đệ tam rất yếu
thế tại miền Nam, lúc đó chưa có quần chúng
tổ chức, chưa có đơn vị võ trang, chỉ mới có một số cán bộ là Dương Bạch Mai, Nguyễn Văn Tạo, Trần Văn Giàu, sau được
tăng cường lớp cán bộ vừa được thả ra từ các khám
đường như Lê Duẩn, Phạm Hùng được chỉ thị ở lại miền Nam hoạt động, chớ không về thẳng miền Bắc. [2]
2. Mặt Trận Quốc
Gia Thống Nhất
Trong
bối cảnh chánh trị kể trên, ngày 14 tháng 8 năm 1945, năm ngày trước biến cố 19
tháng 8 ở Hà Nội, Mặt Trận Quốc Gia Thống Nhất được thành lập với thành phần
gồm có Việt Nam Quốc Gia Độc Lập Đảng, Liên Đoàn Giáo Chức, Tịnh Độ Cư Sĩ, Phật
Giáo Hòa Hảo, Cao Đài, nhóm trí thức Đệ Tứ hay quen gọi là Nhóm Tranh
Đấu... Cương lĩnh của Mặt Trận là chống
Pháp, chống Thực Dân và ngày chính thức ra mắt dân chúng là ngày 21 tháng 8
trong một cuộc biểu tình qui tụ 200.000 người thuộc đủ mọi từng lớp theo lời
kêu gọi của người cầm đầu là Hồ Văn Ngà của Việt Nam Quốc Gia Độc Lập Đảng kéo
tới ủng hộ. Một bản tuyên ngôn cũng được
phổ biến trên báo chí. Mặt khác, để
phòng ngừa quân Pháp trở lại các tổ chức đấu tranh miền Nam còn thành lập bốn
sư đoàn dân quân cách mạng bằng cách võ trang quần chúng do các đoàn thể có khả
năng như Phật Giáo Hòa Hảo, Cao Đài, Việt Nam Quốc Dân Đảng, Bình Xuyên…tự đảm
nhiệm.
Tất
cả các nỗ lực kể trên đều không mang lại kết quả mong muốn. Phe Cộng Sản Đệ Tam đã chờ sẵn và đã mau
chóng cướp được chính quyền và lịch sử đã chuyển sang một hướng khác.
Nhận
xét về Mặt Trận Quốc Gia Thống Nhứt vào thời điểm này, tác giả Nguyễn Long
Thành Nam, cũng là một tín đồ Hoà Hảo rất tích cực đương thời và sau này, đã
viết:
Sơ hở căn bản của Mặt Trận Quốc Gia
Thống Nhất là không nắm lấy chính quyền trong
lúc có phong trào quần chúng ủng hộ như thế.
Thành ra chỉ khơi động phong trào, tạo
không khí thuận lợi, để cho Việt Minh xen vào phỗng tay trên, tuyên bố thiết
lập Lâm Ủy Hành Chánh Nam bộ lãnh đạo
đấu tranh, chỉ bốn ngày sau cuộc biểu tình vĩ đại đó.[3]
Còn
Nguyễn Kỳ Nam, ông này đã ghi chi tiết hơn:
Vừa
hay tin Nhựt đầu hàng, ông Hồ Văn Ngà đứng ra kêu gọi các đảng phái chánh trị đoàn kết lại.
Ngày 14 tháng 8, các đảng phái đáp
lời kêu gọi của Hồ Văn Ngà, đoàn kết sau Mặt
Trận Quốc gia Thống Nhất.
Trong thời kỳ nghiêm trọng nầy, Nhựt
đầu hàng, Đồng Minh sẽ đến tước khi giới,
Pháp làm sao không “đòi” Nhựt trả chủ quyền cho họ, nên đoàn kết là một phương pháp đấu tranh, một vấn đề sinh tử của
cả một dân tộc.
Nhưng dân chúng đặt vấn đề đoàn kết
rất giản dị: nắm tay nhau tranh đấu chống Pháp,
chống thực dân. Có thế thôi.
Không một ai chịu ngó xa thêm một chút nữa:
- Ai lãnh đạo đoàn kết?
- Đóng góp vào đoàn kết đến độ nào?
- Phân công làm sao cho công bằng?
- Phương pháp đoàn kết trong tinh thần nào?
Lúc đó các đảng phái quốc gia chỉ
nghĩ có 3 mục đích:
- Chống Đế quốc Pháp,
- Chống thực dân,
- Bảo vệ an ninh và bài trừ phản động.
Họ không bao giờ nghĩ đến Cộng sản
Đệ tam đang ở trong bóng tối chực cướp công
cuộc kêu gọi đoàn kết, thành lập Mặt Trận Quốc Gia Thống Nhất của cánh Quốc gia.
Cho nên sau lời kêu gọi thống nhất của ông Hồ Văn Ngà, tức thì tất cả
các đảng phái chính trị, tôn giáo nhất
tề đứng dậy.
Việt Nam Quốc gia Độc Lập Đảng, Thanh Niên Tiền
Phong, Nhóm trí thức, Liên Đoàn Công
chức, Tịnh Độ Cư Sĩ, Phật Giáo Hòa Hảo, Cao Đài Giáo v.v…
Đồng thời nhóm Đệ tứ, thường gọi là
nhóm Tranh đấu, cũng xin gia nhập Mặt Trận.
Một bản tuyên ngôn đăng tải trên các
báo Thủ đô.
Đồng bào rất có cảm tình với các
đảng chính trị, nên nhiệt liệt hoan nghinh Mặt Trận
Quốc Gia Thống Nhất. Thấy phong trào
đang lên cao, Mặt Trận liền đứng ra tổ chức
một cuộc biểu tình để biểu dương lực lượng quốc gia.
Thế là ngày 21 tháng 8, hai trăm
ngàn người gồm đủ các giới nghe theo lời kêu gọi
của Mặt Trận, tham gia cuộc biểu tình và tuần hành qua các đường lớn.
Như vậy, đến giờ phút nầy, nào thấy
có mặt Cộng sản?
Mà có mặt Cộng sản, chưa chắc có
cuộc biểu tình trong vòng trật tự như vậy.
Nếu ngay bây giờ, mà có người lãnh
đạo Mặt Trận thì chánh quyền đã về Mặt Trận
Quốc Gia Thống Nhất rồi.
Hồ Văn Ngà… lại viết trên mặt báo
rằng:
“Nghĩa
là lúc nào chúng tôi cũng vẫn đặt nền độc lập quốc gia lên trên vấn đề quyền tước…” [4]
Cũng
về cuộc họp ngày 14 tháng 8, Nguyễn Kỳ Nam cho biết thêm là trong những ngày
đầu, tại trụ sở của Mặt Trận ở đường Léon Combes, sau này là đường Alexandre de
Rhodes, mỗi đêm đều có nhóm họp và
Có
người nói đến Việt Minh. Nhưng Việt Minh
là ai? Ở đâu? Chẳng một ai biết.
Đại biểu các đảng phái đề nghị nên
tìm Đại biểu Việt Minh đặng mời gia nhập Mặt
Trận.
Phan Văn Hùm (nhóm Tranh đầu) tình
nguyện lãnh sứ mạng đi liên lạc với Việt Minh.
Huỳnh Phú Sổ thản nhiên cuời và nói
một cách nửa chơi nửa thiệt:
-…thì Việt Minh có đâu đây, chớ cần
gì phải kiếm?
Té ra có Trần Văn Giàu, đứng trong
hàng ngũ Đảng Quốc Gia Độc lập mà không ai
ngờ Giàu là Đại biểu Việt Minh ở Nam bộ.
Và mọi người đều biết rõ dĩ vãng của
Trần Văn Giàu.
Hồi 1943, Trần Văn Giàu có đến nhờ
anh em cho gia nhập và nhờ can thiệp với nhà
đương cuộc Nhựt, bảo đảm cho Giàu để anh ta dễ bề hoạt động.
Lúc đó, Giàu bị nhà chức trách truy
nã, nên phải bỏ Bà Rịa trốn vào Sài-gòn.
Anh em trong Việt Nam Quốc Gia Độc Lập
Đảng không thể nhận điều kiện của Giàu
mặc dầu Giàu đã cam kết trên giấy trắng mực đen rằng: “Tôi bỏ hàng ngũ Cộng sản
về với Quốc gia” Giàu ký tên hẳn
hòi trên lời cam kết đó.
3. Lâm Ủy Hành
Chánh xuất hiện
Nhờ
len lỏi được vào Mặt Trận Quốc gia Thống Nhất để trở thành “ một cán bộ được
trọng dụng và đắc dụng” [5] như
trên, Trần Văn Giàu đã hiểu rõ được nhược điểm không có người lãnh đạo của Mặt
Trận Quốc Gia Thống Nhất này và lợi dụng cơ hội khi thời cơ đến. Hậu quả là ngày 25 tháng 8, Lâm Ủy Hành Chánh
“tự mình ra mắt đồng bào với Trần Văn Giàu đứng đầu sổ, làm Chủ tịch gồm 9
người, phần đông đều là cán bộ cộng sản”. [6] Theo Nguyễn Kỳ Nam, tất cả xảy ra trong vài
ngày sau cuộc biểu tình 21 tháng 8, bắt
đầu bằng sự kiện hàng triệu truyền đơn do Việt Minh tung ra, tự xưng là bạn với
Nga, với Tàu, với Mỹ, và với Anh… và:
Ngủ qua một đêm, sáng ngày đồng bào
Thủ đô thức dậy lấy làm ngạc nhiên thấy khắp
trên đường treo đầu biểu ngữ
“chánh quyền về Việt Minh”
Không một ai hiểu gì ráo!
Chính các lãnh tụ tham gia trong Mặt
Trận Quốc Gia Thống Nhứt cũng ngẩn ngơ…
Họ hỏi với nhau:
- Việt Minh là ai?
- Ai cho Việt Minh nắm chánh quyền,
mà bảo rằng:chánh quyền về Việt Minh?
Đang lúc bối rối và phân vân ấy,
nhiều truyền đơn khác tung ra: Kêu gọi đồng bào tham gia cuộc biểu tình ngày 28 tháng 8… dưới ký tên Việt
Minh.
Mặt Trận Quốc Gia Thống Nhứt liền
triệu tập đại hội.
Thì ra thiếu mặt “Thanh Niên Tiền
Phong”
Mà Thanh Niên Tiền Phong là một lực
lượng đáng kể được cảm tình nồng hậu nhất
của dân chúng.
Không dự Đại Hội của Mặt Trận Quốc
Gia Thống Nhứt, Thanh Niên Tiền Phong còn
dán yết thị, treo biểu ngữ, rải truyền đơn xác nhận, kể từ chiều ngày 22 tháng
8: “Thanh Niên Tiền Phong gia
nhập Mặt Trận Việt Minh”.
Bây giờ các lãnh tụ quốc gia mới
hiểu ý nghĩa của lá cờ vàng sao đỏ… để sau đổi thành
cờ đỏ ngôi sao vàng. Và Phạm Ngọc Thạch,
lãnh tụ Thanh Niên Tiền Phong lại là cán
bộ Cộng sản.
Thế là, bên cánh Quốc gia mất đi nửa
lực lượng.
Uy tín của Mặt Trận Quốc Gia Thống
Nhứt bị tổn thương vì Việt Minh.
Nói đến “Thanh Niên Tiền Phong”,
người nhớ kẻ không.
Còn bạn trẻ, thì hầu hết, chỉ nghe
nói lại thôi.
Phong Trào Thanh Niên Tiền Phong quả
thật là một phong trào quốc gia có một lực
lượng hùng hậu, một tinh thần dũng cảm, một hy sinh đáng kể, một chủ trương tân
tiến được đồng bào trong Nam triệt
để ủng hộ; vì Thanh Niên Tiền Phong sẵn sàng hiến thân cho Tổ quốc!
Thanh Niên Tiền Phong là một phong
trào phổ biến sâu rộng trong dân chúng. Nó có một lịch sử vẻ vang mà tất cả mọi
người phải công nhận: đó là phong trào giải phóng
dân tộc mạnh mẽ nhứt trong Nam. [7]
Có
điều người lãnh đạo của tổ chức này, Bác Sĩ Phạm Ngọc Thạch, là người của Cộng
Sản Đệ Tam nằm vùng. Ông này đã lái
Thanh Niên Tiền Phong đi theo hướng khác.
Nguyễn
Long Thành Nam cũng ghi nhận sự bất ngờ của người dân Saigon trước sự xuất hiện
của Lâm Ủy Hành Chánh như sau:
Sáng
ngày 25-8-1945, nguời dân Saigon mới thức dậy nhìn thấy một cây trụ lớn sơn màu đỏ chói đặt tại “Bồn Kèn” tức ngã tư
đường Charner (Nguyễn Huệ sau này) và Bonard
(Lê Lợi sau này) liệt kê danh sách cơ quan chánh quyền miền Nam với danh nghĩa Ủy ban Hành chánh Nam bộ Lâm thời
gọi tắt là Lâm ủy Hành chánh.
Sự xuất hiện thật là đột ngột, báo
chí không hề loan tin trước, dân chúng cũng không
hề nghe đến một cuộc bầu cử hay chuẩn bị nào.
Lại là một cây trụ sơn màu đỏ chói
như màu máu, đập vào mắt mọi người qua lại.
Đây cũng là một lối đánh úp, đánh du
kích của Cộng Sản, bất ngờ tạo ra một thay đổi đột ngột như cờ Việt Minh xuất
hiện đột ngột tại cuộc biểu tình
17-8-1945 tại Hà Nội, và đặt dư luận cũng như các tổ chức đấu tranh trước một “đã rồi”. Những người ngạc nhiên nhất là các chiến sĩ
trong cơ quan lãnh đạo Mặt Trận Quốc
Gia Thống Nhứt. Họ không hề được tham
khảo ý kiến về việc thành lập Lâm
Ủy và thành phần của nó, mặc dầu mới vài ngày trước Mặt Trận Quốc Gia Thống Nhứt do sự yêu cầu của Trần Văn Giàu, đã
chấp nhận cho Giàu tham gia để có sự đoàn
kết rộng rãi mà ứng phó hữu hiệu với thời cuộc.
Thành phần của Lâm Ủy Hành Chánh Nam
bộ gồm có chín Ủy viên mà hết bốn Ủy
viên là Cộng Sản, bốn Ủy viên thân cộng, chỉ có một độc lập.
Trần Văn Giàu, chủ tịch kiêm Ủy
trưởng Quân sự
[…] Tất cả quyền hành đều tập trung
vào tay Trần Văn Giàu, nghĩa là vào Độc tài Cộng
Sản Đệ Tam Quốc tế, chớ không phải là một Chính phủ Liên hiệp (không có một đại diện nào của Mặt Trận Quốc Gia
Thống Nhứt).
Các lãnh tụ Mặt Trận Quốc Gia Thống
Nhứt bất bình, nhưng đã quá trễ. Đảng Cộng Sản đã đi trước một nước cờ quan
yếu. Đồng thời Trần Văn Giàu hạ một đòn
độc đâm
vào sau lưng Mặt Trận Quốc gia Thống Nhất:
Phạm Ngọc Thạch, lãnh tụ Thanh Niên
Tiền Phong, ra thông cáo tuyên bố rằng tổ chức Thanh Niên Tiền Phong đã rút
khỏi Mặt Trận Quốc Gia Thống Nhứt và từ
nay gia nhập Mặt Trận
Việt Minh. [8]
Theo
Nguyễn Trọng Xuất, trong bài “Một Quyết Định Mang Tính Lịch Sử” in trong Trần Văn Giàu Dấu Ấn Trăm Năm, Trần Văn Giàu và phe
Cộng Sản đã bàn tính cướp chính quyền ngay từ giữa tháng 8, trong buổi họp tối
ngày 15 tháng 8 của Ban Thường Vụ Xứ Ủy Nam Kỳ do Trần Văn Giàu triệu tập ngay
sau khi được tin Nhật Bản đầu hàng, ở Chợ Đệm và lập kế hoạch nổi dậy vào đêm
17 hay 18, đồng thời thành lập Ủy Ban Khởi Nghĩa gồm 6 người với Trần Văn Giàu
làm chủ tịch và Huỳnh Văn Tiểng làm ủy viên thường trực rồi đêm 16 họp Hội Nghị
Xứ Ủy Nam Kỳ mở rộng để thông qua kế hoạch này.
Cuộc họp không suông sẻ vì có hai nhóm đối nghịch nhau về quyết định nổi
dậy hay không, khiến Trần Văn Giàu phải cho ngưng lại và đặt câu hỏi “Nếu Hà
Nội khởi nghĩa thì trong Nam ta phải làm gì?”
Kết quả là Hội Nghị mở rộng họp lại lần thứ hai vào sáng ngày 21 rồi đặc
biệt lần thứ ba vào sáng ngày 23, sau khi Tân An thành công cướp được chính
quyền một cách suông sẻ, không bị quân Nhật ngăn cản, kèm với tin Đại tá Cédile
đã nhảy dù xuống Tây Ninh để cuối cùng đêm 24 quyết định sẽ biểu tình tuần hành
vào sáng hôm sau 25 tháng 8, đồng thời thành lập Ủy Ban Hành Chánh Lâm Thời,
gọi tắt là Lâm Ủy Hành Chánh với Trần Văn Giàu làm Chủ Tịch. [9]
Cũng
trong tác phẩm Trần Văn Giàu Dấu Ấn Trăm
Năm, Tiến Sĩ Sử Học Phan Văn Hoàng trong bài “Cùng Nhau Xông Pha Lên Đàng”
cũng cho biết thêm nhiều chi tiết về các hoạt động của Cộng Sản dưới danh nghĩa
Việt Minh và Thanh Niên Tiền Phong trong những ngày này. Chẳng hạn như trong buổi lễ truy điệu Nguyễn
An Ninh ngày 20 tháng 8, do Thanh Niên Tiền Phong tổ chức, Tôn Đức Thắng, “một
thanh niên cách mạng, một đảng viên của Nguyễn Ái Quốc, hiện bị 20 năm tù ngoài
Côn Đảo” ngay lúc mở đầu đã được bầu làm chủ tịch danh dự và Phạm Ngọc Thạch là
chủ tịch. “Diễn giả là Nguyễn Văn Tạo,
một cán bộ cộng sản kỳ cựu”. Mặt khác,
căn cứ vào báo Điện Tín, Tiến Sĩ Phan Văn Hoàng cho biết thêm là lần đầu tiên
người Nam Bộ được nghe tiếng hô “Vạn tuế Việt Minh” là sau buổi lễ truy điệu
Nguyễn An Ninh đêm 20 tháng 8 tại rạp Nguyễn Văn Hảo. Đêm hôm sau, cũng tại rạp Nguyễn Văn Hảo,
Liên Đoàn Công Chức tổ chức buổi diễn thuyết với Trần Văn Giàu là diễn giả.
Trong buổi diễn thuyết này, Trần Văn Giàu đã đưa ra nhận định của Đảng cộng sản
là “Không phải một mình Đảng đem lại sự độc lập cho Việt Nam [mà] cần phải có
nhiều đồng bào, nhiều chánh đảng yêu nước tham dự” và “Xét như vậy, Đảng cộng
sản mới kêu gọi tất cả các đảng yêu nước, tất cả dân chúng liên hiệp lại làm
một mặt trận để chống bọn đế quốc xâm lăng, để mưu đồ cuộc độc lập hoàn toàn
cho nước nhà. Mặt trận ấy là Việt Nam
độc lập đồng minh, tức Việt Minh…” bên cạnh nhiều hoạt động khác của Trần Văn
Giàu. [10]
Hồi
ký của Nguyễn Kỳ Nam thì lại nói hoàn toàn khác. Theo Nguyễn Kỳ Nam:
“Nắm chánh quyền được 5 ngày, từ 25
tới 30 tháng 8, Lâm Ủy Hành Chánh Nam Bộ
mở phiên nhóm Khoáng Đại Hội Nghị, có đủ các Đảng phái Chánh Trị tham gia.
Buổi nhóm đó, có các ký giả.
Tôi không bao giờ quên những câu hỏi
và những câu trả lời của Trần Văn Giàu.
Nghe
và thấy vậy, làm sao không sợ?
Nhứt là người đứng lên trả lời đó là
một cán bộ cao cấp của Đảng Cộng sản Đệ tam.
Không run, không sợ làm sao… khi mà
sáng tinh sương ngày 25 tháng 8, từ nhà xuống
toà báo, đi qua “Bồn kèn” trước Sạc Ne, tôi trong thấy một trụ lớn và vuông,
bốn mặt sơn đỏ lòm, kẻ chữ vàng,
danh sách những người được chọn vào Lâm Ủy Hành Chánh, đứng đầu là Trần Văn Giàu.
Buổi nhóm Khoáng Đại Hội Nghị hôm
đó, Lâm Ủy Hành Chánh để lộ chân tướng “sát
nhơn” rõ rệt.
Tôi nhớ 2 người chất vấn: Huỳnh Phú Sổ và Trần văn Thạch.
Huỳnh Phú Sổ - Phật Giáo Hòa Hảo -
mà cũng là lãnh tụ Đảng Việt Nam Vận Động
Hội - tôi sẽ nói sau này.
Bây giờ, tôi xin nói trường hợp của
Trần Văn Thạch – nhóm Đệ Tứ - trước.
Thạch chất vấn Giàu:
- Ai cử Lâm Ủy Hành Chánh Nam Bộ?
Thạch chất vấn như vậy là phải, vì
như trên đã nói, ngủ một đêm sáng ngày bừng mắt
dậy, bỗng dưng thấy danh sách Lâm Ủy Hành Chánh, kẻ chữ trên một trụ đỏ lòm, không biết
ai cử Lâm Ủy Hành Chánh? Và cử hồi nào?
Trần Văn Giàu đứng dạy trả lời:
- Anh Thạch, tôi biết anh muốn nói gì
rồi. Anh hỏi: “Ai cử Ủy Ban Hành Chánh”,
chớ thật ra trong bụng anh nghĩ: Ta giỏi
như vầy mà không ai đem ta vào Lâm Ủy”.
Vậy tôi xin trả lời: “Chúng
tôi tạm thời đảm đương chính phủ. Trong giai đoạn này. Sau rồi, chúng
tôi giao lại các anh. Còn trả lời về
chánh trị, tôi sẽ gặp anh ở một nơi khác”.
Trần Văn Giàu vừa nói câu sau vừa để
tay mặt nơi cây súng sáu. [11]
Viết
về Trần Văn Giàu và biến cố Việt Minh cướp chính quyền ở miền Nam, phía những
người Cộng Sản, kể cả các nhà nghiên cứu hay sử học đã dùng các từ ngữ vô cùng
hoa mỹ như “tinh thần sáng tạo”, “chủ động”, “bản lĩnh, trí tuệ” để ca
ngợi. [12] Nguyễn Văn Trấn, một lãnh đạo Cộng Sản cao
cấp đương thời, quê ở Chợ Đệm là nơi Xứ ủy Nam Kỳ họp ba đêm liền, 21, 22 và 23
tháng 8, để sửa soạn cho ngày cướp chính quyền 24 tháng 8, người sau này được
cử làm Giám Đốc rồi Ủy Trưởng Quốc Gia Tự Vệ Cuộc và cũng tự nhận là “Người tổ
chức cướp chính quyền ở Saigon”, đồng
thời được mệnh danh là “Hung Thần Chợ Đệm”, lại cho biết những chi tiết khác
hơn khi ông viết kể lại chuyện này vào năm 1995, tức nửa thế kỷ sau, “để cho rõ
vài chuyện lịch sử bị kể méo”, theo lời ông, như sau:
Cái năm 1995 năm mà cái chủ nghĩa
háo danh nó làm kỷ niệm rập rình, bắt tôi, trái
với lòng hết sức, nhưng vì nợ nuớc phải rập theo.
Rập theo khoe không phải vì công
khanh mà để cho rõ vài chuyện lịch sử bị kể méo.
Người tổ chức cướp chánh quyền ngày
25 tháng Tám, ở Saigon là chính tôi
đây, chớ tôi không có ai ở trên đầu để
tôi làm phó. Sử gia hãy nghe tôi nói
lại.
Một buổi chiều (nhớ chắc là ngày 24
chớ không thể là vào ngày khác được, tại nhà
số 6 Colombert tôi thay mặt cho Cộng sản, họp với Huỳnh Văn Tiểng mà tôi gọi là
người “lãnh đạo Thanh niên Tiền
phong của Tân dân chủ đảng”, với Trương Văn Giàu, Nguyễn Văn Quang, ông Đội Hưng ở Caserne Lelièvre, (gần bên
thơ viện), Sơn Xuyên và Chín Bội
của Brigade mobile Chí Hoà. Mấy vị lính này là bạn của tôi qua công tácbinh vận mà trách bương bả.
Hôm đó tôi nói kế hoạch và phân
công. Và cũng muốn làm oai chơi nên đề
nghị các đoàn thanh niên của anh em dân
chủ chịu trách nhiệm những chỗ quan trọng mà cuộc khởi nghĩa nào của thành phố cũng đền nghĩ tới trước nhứt. Những chỗ đó là: Nhà đèn, Đài phát thanh, Khám lớn, Nhà dây thép,
các trại lính.
Đằng anh em kêu, nhiệm vụ như vậy
nặng quá, làm không nổi, cho lãnh những chỗ
vừa vừa.
Tôi nói vừa vừa là dinh Thống đốc,
là đài phát thanh…?
Có người nào đó nói: hai chỗ đó,
lính Nhựt còn cả tiểu đội chớ vừa gì?
Tôi nói:
Thật ra như mùa lúa chín, ta rung nó
rụng thôi. Mà thế lực của ta là: Ở cơ
quan, công sở nào cũng có Thanh niên
Tiền phong hai màu cờ. Hôm qua cờ vàng
hoan hô Khâm sai đại thần. Ngày mai cờ vàng, cờ đỏ sánh đôi hô Việt minh
vạn tuế.
[…]
Trên chóp nón là chính tôi, chin Bôi và Kiều Tấn Lập.
Và
Nguyễn Văn Trấn kết luận:
Cách
mạng Tháng Tám ở Saigon mà thắng lợi là cũng nhờ có cơ hội, điều kiện giúp cho nó mà thôi.
Coi,
tôi là người tổ chức cướp chính quyền mà thiệt ra tôi có làm được gì nhiều đâu. [13]
Điều
cần phải tìm hiểu là trong hồi ký của ông, Nguyễn Văn Trấn đã không hề nói tới
ba cuộc họp vô cùng gay cấn để quyết định có nên khởi nghĩa hay không của
Thường Vụ Xứ Ủy ở Chợ Đệm, quê hương ông.
Câu hỏi được đặt ra là tại sao? Xin để các độc giả tự tìm câu trả lời.
Riêng
về thế lực của phía quốc gia, Nguyễn Văn Trấn viết:
Cơ
sở giai cấp, nền tảng Mặt trận quốc gia thống nhứt của chánh quyền khâm sai Nguyễn Văn Sâm, có đó và không phải
yếu.
Ông ta nè, hội đồng Bền chủ hãng xà
bông Việt Nam nè, Kha Vạng Cân chủ lò đúc
“Cân et Vang” nè (xin nói chừng ấy với tánh chất đại biểu trí thức tư sản);
Trần Văn Ân, đốc phủ Hoài là trí
thức địa chủ và quan lại;
Vậy mà ít ai dám ngồi lại với Khâm
Sai. Họ sợ tiếng collabo [14] với
phát xít, mà đồng minh sẽ đối xử là tội
phạm chiến tranh.
Cho nên một tiếng hét “đả đảo”, ngày
25-8 đủ cho ông Sâm nhào. Ghế bỏ
trống. Ta
leo lên và dựng “Ủy ban hành chánh Nam Bộ (chớ có đâu mà Ủy ban Nhân dân vô duyên). [15]
Có
điều ngay trang sau, Nguyễn Văn Trấn lại viết:
Sự
nghiệp của tôi đã cho phép tôi báo cáo với Ủy ban hành chánh rằng: sự thắng lợi quá dễ dàng và chóng quánh của Việt Minh
đã làm cho những đảng phái ngoài vòng cảm
tình đã có ý muốn cướp lại nhưng họ đã thôi.
Tôi coi cái nguyện vọng ấy, của họ như
cái trứng chí lép.
Xin
đọc kỹ ba chữ “muốn cướp lại” và các chữ “tội phạm chiến tranh” ở đây và
đối chiếu với những gì kể lại bởi phía các người quốc gia về biến cố 25 tháng
Tám này, đặc biệt là những lời chất vấn Trần Văn Giàu của Trần Văn Thạch thuộc
Nhóm Đệ Tứ và Giáo Chủ Huỳnh Phú Sổ của Phật Giáo Hòa Hảo trên đây trong buổi
họp khoáng đại ngày 30 tháng 8, cùng sự sợ hãi của những người tham dự khi thấy
Trần Văn Giàu tay phải vỗ vào khẩu súng lục đeo bên sườn bên phải khi trả lời
Trần Văn Thạch. Một nghi vấn khác cũng
cần phải được đặt
ra ở đây là có thật có biểu tình cướp các công sở ở Saigon ngày 25 tháng 8 hay
không, vì theo các nhân chứng như đã nói trên đây, thì ngủ một đêm, sáng ra “mới thức dậy nhìn thấy một cây trụ lớn sơn
màu đỏ chói đặt tại “Bồn Kèn” tức ngã tư đường Charner (Nguyễn Huệ sau này) và
Bonard (Lê Lợi sau này) liệt kê danh sách cơ quan chánh quyền miền Nam với danh
nghĩa Ủy ban Hành chánh Nam bộ Lâm thời gọi tắt là Lâm ủy Hành chánh”?
Cũng
Nguyễn Văn Trấn, khi nói về chức xứ ủy Nam Kỳ của Trần Văn Giàu, có viết về một
lớp học do Tạ bá Tòng, một sinh viên con nhà giàu quê Sóc Trăng được cha mẹ cho
ra Hà Nội học và tham gia Thanh Niên Cứu Quốc của Lê Quang Đạo, khi về Saigon
tổ chức ở nhà Dược Sĩ Trần Kim Quang ở Thị Nghè. Lớp học do “anh Sáu”, tức Trần Văn Giàu phụ
trách, quy tụ được gần bảy chục đoàn viên thanh niên dân chủ, và:
Học
trò mến thầy lại nghe lịch sử của thầy nữa nên suy tôn anh Sáu là bí thư xứ ủy Nam Kỳ, không biết cái xứ ủy ma nào. [16]
4. Có phải vì
Nhật thua nên mới trả lại Nam Kỳ cho Chính Phủ Trần Trọng Kim không?
Nhằm
phủ nhận thành tích của Trần Trọng Kim và nội các của ông, có người cho rằng sở
dĩ người Nhật quyết định trả lại xứ Nam Kỳ cho Việt Nam là vì họ đã thua, trong
đó có Nguyễn Văn Trấn. Nguyễn Văn Trấn
căn cứ vào ngày dự trù long trọng làm lễ trả và thu nhận lại xứ này là ngày 14
tháng 8 tại Saigon. Điều này (vì Nhật
sắp thua) không đúng vi hai lẽ. Lẽ thứ
nhất ngày 14 tháng 8 là sau ngày 9 tháng 8, ngày quả bom nguyên tử thứ hai được
thả xuống Nagasaki, sau quả bom thứ nhất được thả xuống Hiroshima ngày 6 tháng
8. Sau đó Nhật Bản mới đầu hàng. Trước đó không ai ngờ chuyện này có thể xảy
ra sớm như vậy và dù sớm hay muộn, Nhật cũng phải thua nhưng còn có thể cầm cự
được cả năm nữa. Lẽ thứ hai là quyết
định trả lại xứ Nam Kỳ cho Việt Nam đã được Thủ Tướng Trần Trọng Kim và Tướng
Tsuchihashi chấp thuận cả non một tháng trước đó, ở thời điểm không một ai có
thể biết là Mỹ sẽ sử dụng bom nguyên tử, ngoại trừ Tổng Thống Truman và các
cộng sự viên thân tín nhất của ông.
Không những thế nhu cầu giữ nguyên trạng, tránh mọi sư lộn xộn ở hậu
phương để cho Quân Đội Nhật rảnh tay đối phó với quân Đồng Minh một khi quân
Đồng Minh đổ bộ là một nhu cầu của người Nhật.
Chính vì thế mà Tướng Tsuchihashi đã dùng dắng lúc đầu. Cũng nên để ý là các cuộc điều đình đã được
thực hiện từ trước khi Thủ Tướng Trần Trọng Kim ra Bắc giữa Ngoại Trưởng Trần
Văn Chương và giới chức Nhật. Còn về
phía Việt Nam, Hoàng Đế
Bảo Đại qua bản
Tuyên Chiếu, ngày 11 tháng 6 năm 1945, tức ngày 21 tháng 5 âm lịch, năm Bảo Đại
thứ 20, ngày lễ Việt Nam Thống Nhất Đại Khánh, cho biết ông phải “hành độngthận
trọng và tuần tự”, “sau khi “chính phủ phải dự bị cho xong công cuộc tổ chức
việc cai trị các lãnh thổ (đã) được phục hồi và thực hành chủ quyền của chính
phủ ta trên các lãnh thổ ấy (hai xứ Bắc và Trung Kỳ)”. Lý do là vì trong suốt 80 năm trước đó Nam Kỳ
là thuộc địa của người Pháp nên hoàn toàn không thuộc thẩm quyền cai trị của
Triều Đình Huế, trái với Bắc và Trung Kỳ là các xứ bảo hộ. Chính vì vậy Nhà Vua đã “cảm ơn quan chức Nhật-bản đã tạm cai quản những lãnh thổ kia từ ngày
mồng chín tháng ba dương lịch, và đã sẵn sàng chỉ đợi chính phủ tuân theo ý
Trẫm, dự bị hoàn toàn, là sẽ trả lại quyền cai trị tất cả đất nước Việt-nam cho
chính phủ Việt-nam”. [17]Vấn
đề như vậy không đơn giản như phía Cộng Sản nhận định và tuyên truyền.
5. Dân Miền Nam
vẫn còn quý trọng Nhà Vua và tôn trọng vị Khâm Sai của Triều Đình
Đây
là một thực tại lịch sử khác ta cần phải để ý.
Nó giúp ta hiểu rõ hơn những gì đã xảy ra ở miền Nam không riêng vào
thời điểm 1945 mà luôn cả những năm cuối của thập niên 40 của thế kỷ 20. Ít nhất có ba sự kiện đã chứng minh thực tại
này.
Thứ nhất: Lễ Hưng Quốc Khánh Niệm 11 tháng 6 năm 1945,
ngày Vua Gia Long thống nhất sơn hà, đã được long trọng cử hành tại Câu Lạc Bộ
Thể Thao Saigon, rất đông người tham dự.
Thứ hai: Ngày 3 tháng 7 năm 1945, 38 sinh viên đại
diện trường huấn luyện Thanh Niên Tiền Phong đã ra Huế và đã được Vua Bảo Đại
tiếp kiến. Nguyễn Kỳ Nam lúc đó có mặt ở
Huế với tư cách đặc ủy viên của Bộ Tư Pháp của Luật Sư Trịnh Đình Thảo đã kể
lại buổi lễ như sau:
Cuộc
tiếp rước đơn giản mà trọng thể tại lầu Kiến Trung, nhà vua không tiếc lời ban khen nồng nhiệt và nhắc nhở trách vụ của
thanh niên trong giai đoạn tranh giành độc lập, và
kiến thiết quốc gia.
Do đề nghị của Chính phủ Trần Trọng
Kim, vua Bảo Đại ban Sắc, chuần cho Phạm
Ngọc Thạch sung chức Xứ trưởng thanh niên và đại diện Bộ trưởng thanh niên Phan Anh ở Nam Kỳ. [18]
Thứ ba: Khâm Sai Đại
Thần Nguyễn Văn Sâm, sau khi đã bị Việt Minh ngăn chặn, kể cả bị bắt, khi trên
đường đầy gian nan, nguy hiểm, từ Huế vào Saigon nhậm chức vào lúc tình hình đã
có nhiều biến chuyển, vẫn được đồng bào Nam Kỳ long trọng đón tiếp.
6. Dân chúng
đứng chật hai bên đường từ Đất Hộ (Dakao) về tới đường Lagrandière (Gia Long)
dinh Thống đốc để đón mừng vị Khâm Sai đầu tiên của triều đình sau tám mươi năm
ngoại thuộc
Nguyễn
Kỳ Nam, như đã nói ở trên, lúc đó là đặc ủy viên của Bộ Tư Pháp của Bộ Trưởng
Trịnh Đình Thảo trong Chính Phủ Trần Trọng Kim, là người tháp tùng Nguyễn Văn
Sâm và, vì không tin người tài xế, đã lái xe cho ông này trong đoạn cuối của
chuyến vô Saigon nhậm chức, đã ghi lại sự đón tiếp nồng hậu mà vị Khâm Sai này
nhận được khi qua khỏi Phan Thiết, tiến vào địa phận Nam Kỳ như sau:
Đường
về Nam Bộ, xe Khâm sai qua khỏi ranh Phan Thiết là gặp những khải hoàn môn dựng trước công sở, đón tiếp
nồng hậu.
Bây
giờ, tôi mới biết mình còn sống.
Tôi ngừng xe
lại. Mà xe ngừng ở giữa 2 bên mé rừng
làm cho ông Nguyễn Văn Sâm ngạc nhiên.
-Sao
anh không chờ tới chỗ đông người…
Tôi
mở cái “cốp” xe Ford, lấy lá cờ quẻ ly, đem treo trước đầu xe. Diệp Ba mỉm cười.
-Họ
đã xé lá cờ lúc tới Khánh hoà, tại sao anh còn lá cờ nầy?
-Tôi
“phòng thủ” một lá cờ thứ hai từ lúc còn ở Huế.
Từ đây về Saigon sẽ gặp nhiều
nơi đón tiếp. Dầu sao cũng là Khâm sai
đại thần, phải treo cờ cho người ta biết chớ!
Ông
Nguyễn Văn Sâm cười, một nụ cười đau khổ thế nào! Diệp Ba vui miệng nói luôn:
-Hồi
thời xưa, nhà vua đưa Khâm sai đại thần đi trấn nhậm một nơi nào, là tiền hô hậu ủng, hương án đặt hai bên đường, lính
tráng oai nghiêm chớ đâu có một chiếc xe Ford
trơ trọi như vầy… Lại còn bị nhốt vào khám nữa!
Diệp
Ba nói dứt lời, xe tiến tới…một bàn hương án!
Tôi
ngừng xe lại, Diệp Ba ngó ra trước nói:
-Cũng
có hương án đó!
Đây
là Xuyên Mộc. Ông chủ Quận ặc áo
rộng đứng trước bàn hương án, với ban Hội tề và vài người lính.
Một giây pháo nổ lẹt đẹt xé tan không khí âm u
của khu rừng im lặng, giữa quang
cảnh gió mát, cây lá chận ánh sáng mặt
trời.
Một
quận nghèo nàn làm sao ấy!
Đây
là “ải địa đầu” của Nam Bộ.
Dân
tình thưa thớt, có mấy chú thợ rừng…Không ai chú ý đến ông Khâm sai Đại thần! Hơn nữa, Nam Kỳ là thuộc địa, nó mới mang tên
“Nam Bộ” đây và bây giờ mới có một Khâm sai đại thần sau tám mươi
năm không liên lạc với Triều đình vua chúa.
Nguyễn
văn Sâm xuống xe nói chuyện qua loa vì sợ mất thì giờ, đoạn vội vã trở lên xe đặng về Saigon kịp 5 giờ chiều.
Tôi
đếm tất cả là 18 người đứng chung quanh bàn hương án!
Ông
tỉnh trưởng Phan thiết đánh điện tín về những tỉnh, những quận… mà Khâm sai sẽ trải qua, trên quốc lộ số 1, nên đâu
đâu đều chuẩn bị cuộc tiếp rước. Xe chưa
vào châu thành Biên hòa, lại gặp
một chiêc xe trắc xông có cắm cờ đón giữa đường, ở một nơi vắng vẻ.
Tôi
hỏi:
-Sao?
Ngừng hay chạy luôn. Kìa có người đưa tay ra ngoắc xe ngừng lại; bây giờ liệu sao?
Diệp
Ba cũng cón lưỡng lự. Xe lại gần…
Tôi
tốp bớt máy lại, rề rề… chờ.
-Sao?
Ngừng hay… chạy luôn.
Tôi
hỏi chưa dứt câu, Diệp Ba vùng la lên:
-Anh
Huỳnh Văn Phương mà làm tôi hết hồn…tưởng Việt Minh đón xe bắt ông Khâm sai nữa!
Ông
Hỳnh Văn Phương lãnh chức Tổng giám đốc Công an lên trước ở đây, đón ông Nguyễn Văn Sâm đặng hỏi tin tức.
Mọi
người đều xuống xe.
Huỳnh
Văn Phương và Nguyễn Văn Sâm trao đổi tin tức.
-Tụi
nó…dám tuyên truyền Bảo Đại thoái vị rồi.
Tụi
nó…đây là Việt Minh.
Ông
Huỳnh Văn Phương là chiến sĩ Đệ tứ nắm Công an trong tay, tự nhiên phải coi chừng Cộng sản Đệ tam, từ mọi hành động,
từ một lời tuyên truyền.
Huỳnh
Văn Phương lại hỏi riêng tôi:
-Anh
có nghe Hội đồng Nội các tính thế nào không? Và ông Đổng lý Văn phòng Bảo Đại có biết gì về Việt Minh không?
Tôi
không giấu một sự thật nào:
-Thủ
tướng Trần Trọng Kim không thể lập Nội các nữa được, nên ở đó chờ giờ… Ông đã mướn nhà riêng ở bên kia cầu Trường
tiền, đặng khi Việt Minh đến, ông sẽ giao luôn
Thủ tướng Phủ?
Ông
Huỳnh Văn Phương coi bộ cương quyết lắm:
-Tôi có đủ tin tức biết rõ lực lượng Việt Minh. Họ không có khí giới gì ráo. Tôi đủ
sức giữ Saigon, không để Việt Minh cướp chánh quyền một khi Bảo Đại chưa thoái
vị.
Ông
Nguyễn Văn Sâm lúc nào cũng bình tĩnh và ôn hòa:
-Để
về tới nơi rồi sẽ lo liệu. Ở Hà nội,
Phan Kế Toại chịu đựng không nổi nên đánh
điện về Huế xin từ chức.
Huỳnh
Văn Phương kể sơ qua những biến chuyển mấy ngày chót. Đoạn cùng nhau
trực chỉ Saigon.
Xe
của Phương mang cờ Công an, chạy trước mở đường.
Tới
Biên hoà, Thanh niên Tiền Phong sắp hàng tiếp rước Khâm sai rất long trọng.
Ông
Khâm sai Đại thần đứng trước cờ vàng sao đỏ của Thanh niên Tiền phong, nghiêm chỉnh bằng cách đưa trước ngực…như một
chiến sĩ bại trận…hàng cầu nghịch vậy!
Rồi
Thủ đức, Gia định, Saigon.
Dân
chúng đứng chật hai bên đường từ Đất hộ (Dakao) về tới đường Lagrandière (Gia Long) dinh Thống đốc là nơi còn
Minoda.
Xe
Huỳnh Văn Phương ngừng ở Đất hộ để một mình ông Khâm sai vào Saigon để cuộc tiếp rước không lầm lẫn
được. Nhưng tôi quýnh trước số đông dân
chúng một lúc một đông thêm. Tôi run: cầm tay chiếc Ford PI (Palais
Impérial) mà lòng những hồi hộp làm
sao ấy! [19]
Xin
để ý câu nhận định của Huỳnh Văn Phương về lực lượng võ trang của Việt Minh và
sự tự tin của ông dựa trên những tin tức mà ông nhận được: “Tôi có đủ tin tức biết rõ lực lượng Việt Minh. Họ không có khí giới gì ráo. Tôi đủ sức giữ Saigon, không để Việt Minh
cướp chánh quyền một khi Bảo Đại chưa thoái vị” để đối chiếu với những gì
xảy ra sau đó. Quan điểm này phần nào giống quan điểm của Chủ
Tịch Tổng Hội Sinh Viên Đại Học Hà Nội Phan Thanh Hòa, chống lại chủ
trương ép nhà vua thoái vị nhường quyền cho Việt Minh. Không có lực
lượng võ trang đáng kể, Việt Minh chỉ lợi dụng Thanh Niên Tiền Phong làm lực
lượng xung kích qua sự lừa đảo tập thể những người trẻ
chỉ biết yêu nước và phụng sự quốc gia của Miền Nam này của lãnh tụ gốc Cộng
Sản Đệ Tam Phạm Ngọc Thạch và họ đã thành công, gìống hệt như ở Hà Nội, họ đã
lợi dụng và cướp ngang cuộc biểu tình ngày 17 tháng Tám của Tổng Hội Công Chức.
Điểm khác biệt là ở miền Bắc cuộc chống đối
tiếp theo là giữa Quốc Gia và Cộng Sản, còn ở miền Nam có thêm Nhóm Tranh Đấu
Đệ Tứ. Hậu quả là phe Đệ Tứ phần đông là
trí thức du học ở Pháp về đã bị tàn sát một cách tàn khốc với các nhân vật danh
tiếng như Tạ Thu Thâu, Trần Văn Thạch, Dương Văn Giáo, Phan Văn Hùm, Hồ Văn
Ngà, vợ chồng Bác Sĩ Hồ Vĩnh Ký-Nguyễn Ngọc Sương…Nên để ý là Bác Sĩ Nguyễn
Ngọc Sương là thủ lãnh Thanh Niên Tiền Phong, phía các phụ nữ. Đó là chưa kể tới 64(?) người ở Sông Lòng
Sông và không rõ bao nhiêu người trong danh sách trên hai ngàn người của Trần
Văn Giàu được nói tới trong hồi ký của Nguyễn Kỳ Nam,
Trần Văn Ân và nhiều nhân vật khác khiến miền Nam mất đi một lực
lượng trí thức ưu tú lớn lao, cần thiết để sau này tiếp tục tranh đấu cho nền độc lập, thống nhất và kiến thiết xứ
sở. Bác Sĩ Trần Ngươn Phiêu trong bài viết nhan đề
“Những Nhân Chứng Cuối Cùng”, đăng trên Diễn
Đàn Cựu Sinh Viên Quân Y năm 2010,đã
viết về những sự
kiện này như sau:
Trong đêm 23 tháng 9 năm 1945, ngày lịch sử mở
màng cuộc Kháng chiến Cách mạng Mùa Thu
ở Nam bộ, người bị giết đầu tiên, thây phơi trên đường Albert 1er (Đường Đinh Tiên Hoàng) là ông Lê Văn Vững, bí thư
vùng Sài Gòn-Chợ Lớn của nhóm Tranh Đấu
và cũng là người phụ trách phát hành lại báo Tranh Đấu[20]. Như vậy người Việt
Nam đầu tiên đã bỏ mình trong cuộc
Kháng chiến chống Pháp không do thực dân giết mà lại do Tự vệ Cuộc miền Nam thanh toán. Bà vợ của ông Vững đã tận tụy suốt
đời nuôi con và mở một tiệm bán
bánh mức trên đường Đinh Tiên Hoàng, gần góc đường Hiền Vương. Tiệm trương bảng màu vàng đề tên Lê Văn Vững chữ
đỏ, để kỷ niệm người chồng vắn số.
Vài ngày sau 23 tháng 09, 1945 nhà
giáo Nguyễn Thi Lợi phụ trách báo Tranh Đấu cũng
bị thủ tiêu ở Cần Giuộc, Chợ Lớn. Cuộc khủng bố trắng, săn bắt, ám sát các nhân
sĩ ái quốc có uy tín nhưng không
thuộc Đảng Cộng sản từ đó đã xảy ra hằng ngày, bắt đầu từ Bùi Quang Chiêu đến Hồ Văn Ngà, Trần Quang Vinh, Luật
sư Hồ Vĩnh Ký và vợ là Bác sĩ
Nguyễn Thị Sương (nguyên Thủ lãnh Phụ Nữ Tiền Phong)v.v... Nhà viết báo và cách
mạng danh tiếng trong thời kỳ
“Đông dương Đại hội,” Diệp Văn Kỳ, khi biết rõ ý đồ của Trần Văn Giàu, đã
lánh mặt, mặc áo tu lên ở Tha La Xóm Đạo (Trảng Bàng) cũng bị bắt và sát hại trong đêm.
Một nhân tài có tiếng tăm khác bị
thanh toán là Luật sư Dương Văn Giáo. Cái chết
của ông Giáo có thể có liên can một phần nào đến cấp chỉ huy trực tiếp của ông
Trấn, tức ông Trần Văn Giàu, Chủ tịch
Ủy ban Hành chánh Nam bộ. Số là trước khi Nhật đảo chánh Pháp ngày 09 tháng 03 năm 1945, ông Trần Văn Giàu cũng
như một số lớn các nhà cách mạng khác, đã
bị Pháp cầm tù ở Trại Tà Lài (Bà Rá). Có thể vì nhu cầu chánh trị, để chống phá quân đội Nhật, giới cầm quyền Pháp ở
VN đã nhận chỉ thị từ Pháp dàn cảnh để ông
Trần Văn Giàu vượt ngục Tà Lài để ra ngoài hoạt động chống Nhật. Khi Nhật đảo chánh Pháp, trong các hồ sơ mật được giữ
trong văn khố Sở Mật thám ở Catinat, văn kiện này
được người Nhật tìm ra và ông Huỳnh Văn Phương là người được Chánh phủ Trần Trọng Kim cho phụ trách cơ sở bót
Catinat đã có tài liệu về việc Trần Văn Giàu gặp gỡ với trùm mật thám Arnoux của Pháp. Trong một phiên họp của Mặt
trận Quốc gia Thống Nhất ở nhà vợ chồng
bác sĩ Hồ Vĩnh Ký, đường Phan Đình Phùng, ông Dương Văn Giáo lúc đó từ Thái Lan về, đã rút từ cập da
ra tài liệu này cho các người hiện diện xem. Sau khi thảo luận, chính ông Giáo là người đề nghị không công bố
tài liệu này để không làm mất uy tín
ông Trần Văn Giàu để Mặt trận Việt Minh có thể lãnh đạo hữu hiệu việc chống Pháp lúc đó đang lâm le chiếm trở lại miền
Nam. Quyết định sau cùng của buổi hội là giao cho
Dương Văn Giáo đến gặp Trần Văn Giàu đặt vấn đề cải tổ Lâm Ủy Hành Chánh.
Khi
Pháp, với sự thỏa thuận của quân đội Anh đang chiếm đóng, làm chủ được SàiGòn nhưng còn bị bao vây trong thành
phố, Dương Văn Giáo đã bị vu cáo là Việt gian và bị xử tử ở Cầu Bến Phân (Gia Định). Phần đông những người hiện
diện trong buổi hội lịch sử kể
trên như luật sư Hồ Vĩnh Ký và vợ là bà bác sĩ Nguyễn Thị Sương,
Huỳnh Văn Phương, Hồ Văn Ngà,
Huỳnh Phú Sổ, Lê Kim Tỵ... sau đó đã lần lượt bị giết chỉ trừ Vũ Tam Anh (sau bị Mật vụ chế độ Ngô Đình
Diệm giết) và Nguyễn Văn Hướng.
Những
người đã bị thủ tiêu không những phần nhiều đã hoạt động chung quanh vùng Sài Gòn, Chợ Lớn mà còn cả nhiều người ở
các tỉnh xa ở miền Nam. Danh sách những
người này như đã được ghi nhận từ lâu, chỉ chờ có cơ hội là được đem ra thi
hành. Ông Trịnh Hưng Ngẫu (người được
giới tranh đấu ở Nam biết tiếng không phải chỉ vì ông đã chế biến cho các xe chuyên chở sử dụng lò đốt than gọi là gasogen
để thay thế xăng khan hiếm vào
thời đó, mà do thành tích ông đã đá vô mông một cò Pháp nhân một cuộc bảo vệ ông Bùi Quang Chiêu từ Bến Nhà Rồng,
Khánh Hội về tới nhà ở Phú Nhuận) đã cho
biết là trong một cuộc gặp gỡ Trần Văn Giàu ở Thái Lan, ông Giàu đã khoe là ông
có danh sách hơn 200 người cần thủ tiêu
nhưng chưa thi hành kịp (!).
Một
số đông những người này đã bị Tự vệ Cuộc của ông Trấn bắt giam trước khi Lâm Ủy Hành Chánh của Trần Văn Giàu rút
khỏi Sài Gòn đi về miệt Tân An. Ông Trấn đã
có đề cập đến việc này trong sách của ông (Xem trang 136) với lời khen (!)
“Pháp cho nhảy dù xuống Hội đồng
Sâm để giải thoát cho tù nhân mà ta giam ở đó. Có cái tốt là tù nhân không chạy theo Tây.” Tù nhân (!) được
giao cho Phạm Hùng đem vào kinh Xáng và đi
luôn xuống Cà Mau. Một số những người bị giam nầy đã thoát chết khi được ông
Nguyễn nhân lúc Sư đoàn này
rút lui về Hậu giang. Người may mắn trong trường hợp này là ông Ngô Văn đã kể lại chuyện trong quyển “VIET-NAM,
1920-1945, révolution et contre- révolution
sous la domination coloniale” xuất bản ở Pháp.
Định mệnh đầy đau thương và cực kỳbi thảm của
miền Nam khởi đầu từ những sự kiện này.Điều đáng tiếc căn bản làvì “mắc lừa bọn
du côn” [21],Chính
Phủ Trần Trọng Kim đã từ nhiệm và Vua Bảo Đại đã thoái vị quá
sớm.
Phạm
Cao Dương
[1] Hoàng Cơ Thụy, Việt Sử Khảo Luận, Cuốn 4, Từ Đế Quốc Việt
Nam đến Trận Điện Biên Phủ. Paris; Nam Á (Sudasie), 2002, tr. 1956.
[2] Nguyễn Long Thành Nam, Phật Giáo Hòa Hảo Trong Dòng Lịch Sử Dân Tộc, Santa Fe Springs, Đuốc Từ Bi, 1981, tr. 308-309.
[3] - nt -, tr.
343.
[4]Nguyễn Kỳ Nam, Hồi Ký “1925-1964”. Tập
II,Saigon,
Nhật Báo Dân Chủ Mới xuất bản, 1964,
tr. 49-50.
[5]
- như trên, tr. 78.
[6]- như trên -, cùng trang.
[7]
- như trên -, tr. 50-52.
[8] Nguyễn Long Thành Nam, Phật Giáo Hòa hảo, tr. 346-347.
[9]Nguyễn Trọng Xuất, “Một Quyết
Định Mang Tính Lịch Sử”, trong Trần Văn
Giàu, Dấu Ấn Lịch Sử. T.P. Hồ Chí
Minh: Nhà Xuất Bản Trẻ, 2012, tr. 172-175.
[10] Phan Văn Hoàng, “Cùng Nhau Xông
Pha Lên Đàng”, trong Trần Văn Giàu, Dấu
Ấn Lịch Sử, tr. 147- 176.
[11]Nguyễn Kỳ Nam, Hồi Ký, đã dẫn, tr. 27-28.
[12] Nguyễn Trọng Xuất, “Tự Vạch Lấy
Con Đường Mà Đi”, trong Trần Văn Giàu Dấu
Ấn Lịch Sử, đã dẫn, tr. 146.
[13] Nguyễn Văn Trấn, Viết Cho Mẹ Và Quốc Hội. California, USA: Văn Nghệ Xuất Bản, 1995, tr.
122 - 124.
[14] Trong sách in là callabo và chú
thich là “cộng tác”
[15]Nguyễn Văn Trấn, như trên, tr.
125.
[16] -như trên-, tr. 117-118.
[17]“Tuyên Chiếu”, trong Tri Tân Tạp Chí, Số 1993, Thứ năm, 25
tháng Sáu 1945, tr. 382.
[18] Nguyễn Kỳ Nam, Hồi Ký, tr. 71.
[19]Nguyễn Kỳ Nam, Hồi Ký, tr. 43-47.
[20] Tờ báo của phe Đệ Tứ.
[21]
Lời Cựu Hoàng Bảo Đại nói với Cựu Thủ Tướng Trần Trọng Kim khi hai
người gặp lại nhau lần đầu tiên vào năm1946 và được Trần Trọng Kim ghi lại trong hồi ký của
ông. Xem Trần Trọng Kim, Một Cơn Gió Bụi. Saigon, Vinh Sơn, 1960, tr. 146.
No comments:
Post a Comment