VIỆC THI HÀNH HIỆP ĐỊNH GENÈVE
LỜI GIỚI THIỆU - Chúng tôi xin giới thiệu bài biên khảo rất có giá trị của cựu Giáo sư/ Nhà biên khảo lịch sử Trần Gia Phụng đề tài "Việc Thi Hành Hiệp Định Genève".
Thiết nghĩ việc thi hành Hiệp Định Genève là chủ đề nóng bỏng vào tháng 7 cách nay 63 năm, lúc ấy người dân Miền Bắc đổ xô trốn chạy chế độ cộng sản Việt Nam vào phiá Nam của vĩ tuyến 17 theo cuộc di cư vĩ đại 1954. Người dân Miền Nam gọi ngày 20/7/1954 là "Ngày Quốc Hận" chia đôi đất nước! Nền Cộng Hoà phôi thai nhưng lại có tinh thần chống cộng sản mãnh liệt của người dân Miền Nam hay Việt Nam Cộng Hoà với cờ Vàng Ba Sọc Đỏ vẫn là biểu tượng của Quốc gia hình chữ S, một Dân tộc máu đỏ da vàng. Người dân ở đó đã ý thức chính trị phân biệt lằn ranh Quốc Cộng để củng cố một nền chính trị vững chắc và bắt đầu công cuộc xây dựng đất nước. Trái lại đảng CSVN luôn chủ trương cướp đoạt đất đai và tài sản của người dân Miền Bắc trước đó rồi phát động chiến tranh chiếm Miền Nam với sự chỉ đạo và trợ giúp của phe cộng sản và cuối cùng họ đã 'thắng cuộc" với sự tán trợ của tập đoàn phản chiến Mỹ. Nêu cao tinh thần viết sử đúng đắn của các nhà giáo dục lỗi lạc thời Việt Nam Cộng Hoà, Nhà biên khảo sử học Trần Gia Phụng là một để thay một lời tố cáo đảng cộng sản Việt Nam gian manh trong chính trị, lừa dối người dân trong nước theo chúng để tàn phá đất nước, lừa dối nhân dân thế giới để lôi kéo được những thành phần phản chiến chống Hoa Kỳ góp phần cho CSVN thắng cuộc và duy trì chế độ cai trị phản dân hại nước lâu dài.
Hoàng Thuỵ Văn
Bài viết của Nhà biên khảo Trần Gia Phụng
Nhân
kỷ niệm 60 năm hiệp định Genève
(20-7-1954), chúng ta thử nhìn lại Bắc Việt Nam (BVN) dựa vào lý do nào để khởi
binh tấn công Nam Việt Nam (NVN)?
1.- HIỆP ĐỊNH GENÈVE
Danh
xưng chính thức đầy đủ của hiệp định Genève
về Việt Nam là Hiệp định đình chỉ chiến
sự ở Việt Nam. Hiệp định nầy được viết
bằng hai thứ tiếng Pháp và Việt, có giá trị như nhau. Hai nhân vật chính ký vào hiệp định Genève là Henri Delteil, thiếu tướng,
thay mặt Tổng tư lệnh Quân đội Liên Hiệp Pháp ở Đông Dương và Tạ Quang Bửu, thứ
trưởng Bộ Quốc phòng chính phủ Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa (VNDCCH tức Việt Minh
cộng sản). Đại diện các nước khác cùng
ký vào hiệp định Genève còn có Anh,
Liên Xô, Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa (Trung Cộng), Lào, Cambodia. Chính phủ Quốc Gia Việt Nam (QGVN) và Hoa Kỳ
không ký vào bản hiệp định nầy.
Hiệp
định đình chỉ chiến sự ở Việt Nam (gọi tắt là hiệp định Genève) gồm có 6 chương, 47
điều, trong đó các điều chính như sau:
Việt
Nam được chia thành hai vùng tập trung, ranh giới tạm thời từ cửa sông Bến Hải,
theo dòng sông, đến làng Bồ-Hô-Su và biên giới Lào Việt. [Cửa sông Bến Hải tức
Cửa Tùng, thuộc tỉnh Quảng Trị. Sông Bến
Hải ở vĩ tuyến 17 nên người ta nói nước Việt Nam được chia hai ở vĩ tuyến 17.] Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa ở phía bắc (tức Bắc
Việt Nam) và Quốc Gia Việt Nam ở phía nam (tức Nam Việt Nam). Dọc hai bên bờ sông, thành lập một khu phi
quân sự rộng 5 cây số mỗi bên, để làm "khu đệm", có hiệu lực từ ngày
14-8-1954. Thời hạn tối đa để hai bên
rút quân là 300 ngày kể từ ngày hiệp định có hiệu lực. Cuộc ngưng bắn bắt đầu từ 8 giờ sáng ngày
27-7 ở Bắc Việt, 1-8 ở Trung Việt và 11-8 ở Nam Việt. Mỗi bên sẽ phụ trách tập họp quân đội của
mình và tự tổ chức nền hành chánh riêng.
Cấm phá hủy trước khi rút lui.
Không được trả thù hay ngược đãi những người đã hợp tác với phía đối
phương. Trong thời gian 300 ngày, dân
chúng được tự do di cư từ khu nầy sang khu thuộc phía bên kia. Cấm đem thêm quân đội, vũ khí hoặc lập thêm
căn cứ quân sự mới. Tù binh và thường
dân bị giữ, được phóng thích trong thời hạn 30 ngày, kể từ khi thực sự ngừng bắn. Sự giám sát và kiểm soát thi hành hiệp định sẽ
giao cho một Uỷ ban Quốc tế. Thời hạn
rút quân riêng cho từng khu vực kể từ ngày ngừng bắn: Hà Nội (80 ngày), Hải Dương (100 ngày), Hải
Phòng (300 ngày), miền Nam Trung Việt (80 ngày), Đồng Tháp Mười (100 ngày), Cà
Mau (200 ngày). Đợt chót ở khu tập kết
Trung Việt (300 ngày).
2.- AI VI PHẠM HIỆP ĐỊNH GENÈVE ?
Hiệp
định Genève ký kết ngày 20-7-1954 chỉ
là một hiệp định có tính cách thuần tuý quân sự. Cũng giống như hiệp ước đình chiến Panmunjom (Bàn Môn Điếm) ngày 27-7-1953 ở
Triều Tiên, hiệp định Genève không phải
là một hòa ước, và không đưa ra một giải pháp chính trị nào cho tương lai Việt
Nam.
Chính
phủ QGVN dưới quyền quốc trưởng Bảo Đại và thủ tướng Ngô Đình Diệm lo tập trung
và rút toàn bộ lực lượng của mình về miền Nam vĩ tuyền 17 đúng thời hạn và đúng
theo quy định của hiệp định. Điều nầy chẳng
những báo chí lúc bấy giờ đã trình bày, mà cho đến nay, chẳng có tài liệu sách
vở nào cho thấy là chính phủ QGVN đã gài người hay lưu quân ở lại đất Bắc. Như thế, trong việc thi hành hiệp định Genève, chính phủ QGVN đã thi hành đúng
đắn hiệp định.
Trái
lại, nhà nước VNDCCH do Việt Minh cộng sản cầm đầu đã không tuân hành quy định
trong hiệp định Genève. Sau đây là hai bằng chứng cụ thể do phía cộng
sản đưa ra về sau:
Thứ
nhứt, tại hội nghị Liễu Châu (Liuzhou) thuộc tỉnh Quảng Tây (Kwangsi), giữa thủ
tướng Trung Cộng Chu Ân Lai và chủ tịch nhà nước VNDCCH Hồ Chí Minh từ ngày 3 đến
ngày 5-7-1954, tức trước khi hiệp định Genève
được ký kết, Hồ Chí Minh đã đưa ra kế hoạch là sẽ chỉ rút những người làm công
tác chính trị bị lộ diện; phần còn lại thì ở lại để chờ đợi thời cơ nổi dậy. Số ở lại có thể đến 10,000 người. (Tiền
Giang, Chu Ân Lai dữ Nhật-Nội-Ngõa hội
nghị [Chu Ân Lai và hội nghị Genève]
Bắc Kinh: Trung Cộng đảng sử xuất bản xã, 2005, bản dịch của Dương Danh Dy, tựa
đề là Vai trò của Chu Ân Lai tại Genève năm 1954, chương 27 "Hội nghị Liễu Châu then chốt". Nguồn:
Internet).
Thứ
hai, Việt Minh cộng sản chẳng những chôn giấu võ khí, lưu 10,000 cán bộ, đảng
viên ở lại Nam Việt Nam, mà còn gài những cán bộ lãnh đạo cao cấp ở lại miền
Nam như Lê Duẫn, Võ Văn Kiệt, Mai Chí Thọ, Cao Đăng Chiếm... (Huy Đức, Bên thắng cuộc, tập I: Giải phóng, New
York: Osinbook, 2012, tt. 271-273), để chỉ huy Trung ương cục miền Nam (TƯCMN).
Trung ương cục miền Nam được thành lập ngày 20-1-1951, chỉ huy toàn bộ hệ thống
cộng sản ở Nam Việt Nam. (Tháng 10-1954,
TƯCMN đổi thành Xứ ủy Nam Bộ. Hội nghị lần
thứ 3 Ban Chấp hành TƯĐ (khóa III) đảng LĐ (ngày 23-1-1961) ở Hà Nội, Xứ ủy Nam
Bộ trở lại thành TƯCMN.)
Hai
tài liệu trên đây do phía cộng sản Việt Nam tiết lộ, chứ không phải tài liệu
tuyên truyền của NVN hay Tây Phương. Như
vậy, rõ ràng trong khi chính phủ QGVN tôn trọng hiệp định Genève, nhà nước VNDCCH đã có kế hoạch vi phạm hiệp định, ngay khi
trước khi hiệp định được ký kết và cả sau khi hiệp định được ký kết.
3.- BẮC VIỆT NAM ĐÒI HỎI ĐIỀU KHÔNG CÓ
Hiệp
định Genève chỉ là một hiệp định đình
chiến, thuần túy quân sự và không đưa ra một giải pháp chính trị. Trong khi chính Bắc Việt Nam (BVN) vi phạm hiệp
định Genève, thì ngày 19-7-1955, thủ
tướng BVN là Phạm Văn Đồng gởi thư cho thủ tướng Nam Việt Nam (NVN) là Ngô Đình
Diệm yêu cầu mở hội nghị hiệp thương bắt đầu từ ngày 20-7-1955, như đã quy định
trong hiệp định Genève ngày
20-7-1954, để bàn về việc tổng tuyển cử nhằm thống nhất đất nước. (John S.
Bowman, The Vietnam War, Day by Day,
New York: The Maillard Press, 1989, tr. 17.)
Ngày 10-8-1955, thủ tướng Ngô Đình Diệm bác bỏ đề nghị của Phạm Văn Đồng,
vì cho 1955 rằng chính phủ QGVN tức NVM không ký các văn kiện Genève nên không
bị ràng buộc phải thi hành.
Tuy
sau đó chính phủ Việt Nam Cộng Hòa (VNCH), thay chính phủ QGVN, nhiều lần từ chối,
Phạm Văn Đồng vẫn nhắc lại đề nghị nầy hằng năm vào các ngày 11-5-1956,
18-7-1957, và 7-3-1958, để chứng tỏ BVN quan tâm đến chuyện thống nhứt đất nước,
và nhằm tuyên truyền với các nước trên thế giới. Lần cuối, Ngô Đình Diệm, lúc đó là tổng thống
VNCH, bác bỏ đề nghị của Phạm Văn Đồng vào ngày 26-4-1958.
Một
điều lạ lùng là trong hiệp định Genève,
không có một điều khoản nào nói đến việc tổ chức tổng tuyển cử để thống nhất đất
nước mà nhà cầm quyền CS cứ nhất định đòi hỏi tổ chức tổng tuyển cử theo hiệp định
Genève. Thật ra, sau khi hiệp định về đình chỉ chiến
sự ở Việt Nam, ở Lào và ở Cambodia được
ký kết, các phái đoàn tham dự hội nghị Genève họp tiếp vào ngày 21-7-1954, nhằm
bàn thảo bản "Tuyên bố cuối cùng của Hội nghị Genève 1954 về vấn đề lập lại
hòa bình ở Đông Dương". Bản tuyên bố
gồm 13 điều; quan trọng nhất là điều 7, ghi rằng:
"Hội nghị tuyên bố rằng đối với Việt Nam, việc
giải quyết các vấn đề chính trị thực hiện trên cơ sở tôn trọng nguyên tắc độc lập,
thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ, sẽ phải làm cho nhân dân Việt Nam được hưởng
những sự tự do căn bản, bảo đảm bởi những tổ chức dân chủ thành lập sau tổng
tuyển cử tự do và bỏ phiếu kín. Để cho
việc lập lại hòa bình tiến triển đến mức cần thiết cho nhân dân Việt Nam có thể
tự do bày tỏ ý nguyện, cuộc Tổng tuyển cử sẽ tổ chức vào tháng 7-1956 dưới sự
kiểm soát của một Ban Quốc tế gồm đại biểu những nước có chân trong Ban Giám
sát và Kiểm soát Quốc tế đã nói trong Hiệp định đình chỉ chiến sự. Kể từ ngày 20-7-1955 những nhà đương cục có
thẩm quyền trong hai vùng sẽ có những cuộc gặp gỡ để thương lượng về vấn đề đó." (Thế Nguyên, Diễm Châu, Đoàn Tường, Đông Dương 1945-1973, Sài Gòn: Trình
Bày, 1973, tr. 53. Xem bản Pháp văn của
tuyên ngôn nầy, vào: google.com.fr., chữ khóa: Déclaration finale de la
Conférence de Genève en 1954.)
Chủ
tịch phiên họp là Anthony Eden (ngoại trưởng Anh) hỏi từng phái đoàn, thì bảy
phái đoàn là Anh, Pháp, Liên Xô, CHNDTH, VNDCCH, Lào và Cambodge trả lời miệng
rằng "đồng ý". (Hoàng Cơ Thụy, Việt
sử khảo luận, cuốn 5, Paris: Nxb. Nam Á 2002, tr. 2642.) Tất cả bảy phái đoàn đều trả lời miệng chứ
không có phái đoàn nào ký tên vào bản tuyên bố, nghĩa là bản tuyên bố không có
chữ ký.
Đây
chỉ là lời tuyên bố (déclaration) của những phái đoàn, có tính cách dự kiến một
cuộc tổng tuyển cử trong tương lai ở Việt Nam, không có chữ ký, thì chỉ có tính
cách gợi ý, hướng dẫn chứ không có tính cách cưỡng hành. Một văn kiện quốc tế không có chữ ký thì làm
sao có thể bắt buộc phải thi hành? Hơn nữa,
những hiệp định với đầy đủ chữ ký mà còn bị CSVN vi phạm trắng trợn, huống gì
là bản tuyên bố không chữ ký.
Phái
đoàn QGVN và phái đoàn Hoa Kỳ không ký vào hiệp định Genève ngày 20-7-1954 và cũng không đồng ý bản "Tuyên bố cuối
cùng của Hội nghị Genève 1954 về vấn đề lập lại hòa bình ở Đông Dương"
ngày 21-7-1954. Hai phái đoàn QGVN và
Hoa Kỳ đã đưa ra tuyên bố riêng của mỗi phái đoàn để minh định lập trường của
chính phủ mình.
4.- BẮC VIỆT NAM BỊA ĐẶT LÝ DO ĐỂ TẤN CÔNG MIỀN
NAM
Cộng
sản BVN vi phạm hiệp định Genève ngay
khi hiệp định nầy chưa được ký kết, nhưng lại bịa đặt ra hai lý do để tấn công
NVN: 1) Nam Việt Nam không tôn trọng hiệp định Genève về việc tổ chức tổng tuyển cử thống nhất đất nước. 2) Nam Việt
Nam là tay sai đế quốc Mỹ nên BVN quyết định chống Mỹ cứu nước.
Về
lý do thứ nhứt, như trên đã viết, hiệp định Genève
không đề cập đến giải pháp chính trị tương lai cho Việt Nam. Giải pháp tổng tuyển cử nằm trong điều 7 của bản
"Tuyên bố cuối cùng của Hội nghị Genève 1954 về vấn đề lập lại hòa bình ở
Đông Dương". Bản tuyên bố nầy lại
không có chữ ký của bất cứ phái đoàn nào, nên chỉ có tính cách khuyến cáo chứ
không có tính cách bắt buộc phải thi hành.
Lý
do thứ hai hoàn toàn có tính cách tưởng tượng vì sau năm 1954, Hoa Kỳ viện trợ
kinh tế cho Nam Việt Nam tái thiết đất nước, ổn định cuộc sống của dân chúng
sau chiến tranh, chứ Hoa Kỳ không viện trợ quân sự, chưa đem quân vào Việt Nam.
Nếu
để cho VNCH yên bình xây dựng kinh tế với sự trợ giúp của Hoa Kỳ, thì đến một
lúc nào đó chắc chắn VNCH với nền kinh tế tự do sẽ phát triển và vượt xa VNDCCH
với nền kinh tế chỉ huy theo đường lối cộng sản. Đó chính là điều mà VNDCCH thực sự lo lắng.
Sự
giúp đỡ của Hoa Kỳ cho NVN chẳng những khiến BVN rất quan ngại, mà sự hiện diện
của người Hoa Kỳ tại NVN còn khiến cho cả Trung Cộng chẳng yên tâm.
Lúc
đó, Hoa Kỳ đang giúp Trung Hoa Dân Quốc bảo vệ Đài Loan (Taiwan), chống Trung Cộng.
Hoa Kỳ còn giúp bảo vệ Nam Triều Tiên và Nhật Bản, nên Trung Cộng mạnh mẽ
chống đối Hoa Kỳ chẳng những tại Đông Á, mà còn chống Hoa Kỳ khắp nơi trên thế
giới, hơn cả Liên Xô chống Hoa Kỳ. Nay
người Hoa Kỳ lại có mặt ở NVN, gần sát với Trung Cộng, nên Trung Cộng rất quan
ngại cho an ninh phía nam của chính Trung Cộng.
Hơn
nữa, cho đến năm 1960 là năm BVN khởi động chiến tranh tấn công NVN, Hoa Kỳ chỉ
viện trợ kinh tế cho NVN chứ Hoa Kỳ không đem quân vào NVN. Chỉ sau khi BVN tấn công và uy hiếp mạnh mẽ
NVN, Hoa Kỳ mới đem quân vào giúp NVN năm 1965.
Vì vậy, chiêu bài “chống Mỹ cứu nước” năm 1960 là hoàn toàn hoang tưởng.
Như
thế, BVN cố tình đưa ra chiêu bài “chống Mỹ cứu nước” vừa để kêu gọi lòng yêu
nước của người Việt Nam vốn có tinh thần chống ngoại xâm, vừa để xin viện trợ cộng
sản quốc tế và thi hành nghĩa vụ quốc tế, như LêDuẫn đã từng nói “Ta đánh Mỹ là đánh cho cả Trung Quốc, cho
Liên Xô”. (Nguyễn Mạnh Cầm, ngoại
trưởng CSVN từ 1991-2000, trả lời phỏng vấn đài BBC ngày 24-1-2013.)
KẾT
LUẬN
Hiệp
định Genève là hiệp định đình chỉ
quân sự. Chính thể QGVN hay VNCH tức NVN
đã thi hành đúng hiệp định Genève,
trong khi VNDCCH tức BVN liên tục vi phạm hiệp định nầy. Do tham vọng quyền lực, do chủ trương bành
trướng chủ nghĩa cộng sản và do làm tay sai cho Liên Xô và Trung Cộng, VNDCCH tức
BVN mở cuộc chiến từ năm 1960, tấn công Việt Nam Cộng Hoà tức NVN dưới chiêu
bài thống nhất đất nước và chống Mỹ cứu nước.
Nhân
kỷ niệm 60 năm hiệp định Genève, xin
ôn lại điều nầy để giới trẻ trong và ngoài nước thấy rõ nguyên nhân của cuộc
chiến 1960-1975, làm cho đất nước điêu tàn và khoảng 3 triệu người Việt tử
vong, xuất phát từ VNDCCH hay BVN do đảng Lao Động hay đảng Cộng Sản Việt Nam
điều khiển.
Điều
nầy càng làm sáng tỏ chính nghĩa của VNCH, cương quyết chống lại CSBVN, bảo vệ
nền tự do dân chủ ở NVN, chống lại sự xâm lăng của cộng sản và sự bành trướng của
chủ nghĩa cộng sản. Dầu thất bại, chính
nghĩa tự do dân chủ của VNCH vẫn luôn luôn sáng ngời và luôn luôn là mục tiêu tối
hậu mà nhân dân Việt Nam hiện đang cố gắng vươn tới.
TRẦN
GIA PHỤNG
(Toronto,
20-7-2014)
No comments:
Post a Comment