ĐẶC ĐIỂM CHIẾN TRANH
1954-1975
(Bài 2)
Trần Gia Phụng
Sau Bắc
Việt Nam và khối cộng sản, là đặc điểm vì sao Nam Việt Nam và Hoa Kỳ tham chiến.
NAM
VIỆT NAM: CHIẾN TRANH TỰ VỆ
Sau
hiệp đinh Genève, ở Nam Việt Nam
(NVN), chính phủ Ngô Đình Diệm dần dần ổn định tình hình, cải tổ quân đội, phát
triển kinh tế, tiếp thu các cơ sở do Pháp chuyển giao, đón tiếp và tái định cư gần
một triệu đồng bào di cư từ Bắc Việt Nam (BVN).
Cuộc trưng cầu dân ý ngày 23-10-1955 đưa thủ tướng Diệm lên làm quốc trưởng. Ngày 26-10-1955, quốc trưởng Ngô Đình Diệm
tuyên bố thành lập Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) theo tổng thống chế, do ông Diệm
làm tổng thống đầu tiên..
Đối
với BVN, ngày 10-8-1955, thủ tướng NVN Ngô Đình Diệm bác bỏ đề nghị của thủ tướng
BVN Phạm Văn Đồng ngày 19-7-1955, yêu cầu mở hội nghị hiệp thương bắt đầu từ
ngày 20-7-1955, để bàn về việc tổng tuyển cử, thống nhất đất nước. (Chính Đạo, Việt Nam niên biểu 1939-1975, tập I-C:
1955-1963, Houston, Nxb Văn Hóa, 2000, tr. 73.) Sau đó Phạm Văn Đồng nhiều lần
đề nghị tiếp, nhưng đều bị chính phủ NVN từ chối vì hiệp định Genève chẳng có điều khoản nào về việc tổng
tuyển cử thống nhất Việt Nam. (Đã viết trong bài trước, mục 1 về BVN.) Thế là BVN động binh tấn công NVN.
Không
lẽ ngồi chờ chết, NVN không còn chọn lựa nào khác, phải tự vệ, chống cuộc xâm
lăng của BVN và khối CS. Nam Việt Nam yếu thế, phải nhờ Hoa Kỳ viện trợ
võ khí, quân nhu và cả bộ binh chiến đấu. Hoa Kỳ giúp NVN theo quyền lợi của
Hoa Kỳ. Sau hiệp định Paris (27-1-1973), Hoa Kỳ rút hết quân về nước, ngưng viện trợ cho VNCH. Quân đội
VNCH một mình chiến đấu hữu hiệu chống CS và vẫn đứng vũng trong hai năm, cho đến
khi hết nhiên liệu và đạn dược, mới chịu buông súng ngày 30-4-1975.
4.- HOA KỲ: THAY ĐỔI CHÍNH SÁCH THEO CHIẾN LƯỢC
TOÀN CẦU
Hoa
Kỳ là một cường quốc, bang giao rộng rãi trên thế giới, luôn luôn giữ thế cân bằng
chính trị (balance politique) của Hoa Kỳ với các nước đồng minh và các nước thuộc
các khối chính trị khác. Chính sách của Hoa Kỳ ở NVN thay đổi tùy theo chiến lược
ngoại giao toàn cầu của Hoa Kỳ.
Chiến lược Đông Á
thập niên 50: Đảng CS cầm quyền ở
Trung Hoa tháng 10-1949, bắt đầu thách thức Hoa Kỳ ở Đông Á. Hoa Kỳ và Trung Cộng
đụng độ tại chiến tranh Triều Tiên (1950-1953).
Sau khi tổng thống Dwight D. Eisenhower lên cầm quyền ngày 20-01-1953,
Hoa Kỳ ký với Nam Triều Tiên Mutual
Defense Treaty Between the United States and the Republic of Korea ngày
1-10-1953; với Trung Hoa Dân Quốc (Taiwan) Sino-American
Mutual Defense Treaty ngày 2-12-1955, và với Nhật Bản Treaty of Mutual Cooperation and Security between the United States and
Japan ngày 19-1-1960. Hoa Kỳ quyết
chận đứng Trung Cộng tiến ra Thái Bình Dương; nhằm bảo vệ các quần đảo đông bắc
Thái Bình Dương tức phía tây Hoa Kỳ, từ Alaska đến California, là những căn cứ Hải
quân phên dậu bảo vệ Hoa Kỳ.
Lúc
đó, các nước Đông Dương bị ràng buộc vào điều 19 chương III của hiệp định Genève (20-7-1954), không liên minh quân sự với nước ngoài, nên NVN, Cao Miên và Lào được sắp vào
nhóm được bảo vệ trong phụ bản của Hiệp ước
Hỗ tương Phòng thủ Đông Nam Á tại
Manila (Phi Luật Tân), ngày 8-9-1954.
Vào
cuối nhiệm kỳ 2 của tổng thống Eisenhower, phi cơ do thám U-2 của Hoa Kỳ, bay qua
không phận Liên Xô ở cao độ 70,000 feet (21,3 Km), bị bắn rơi ngày 1-5-1960,
gây cuộc khủng hoảng giữa Hoa Kỳ và Liên Xô. Phi công Francis Gary Powers, được
thả năm 1962, đổi lấy một điệp viên Liên Xô bị bắt.
Chiến tranh lạnh đầu
thập niên 60: Sau khi tổng thống John F. Kennedy lên cầm
quyền ngày 20-01-1961, liên tiếp xảy racác khủng hoảng Mỹ-Nga: 1) Hoa Kỳ ủng hộ nghĩa quân Cuba chống Fidel
Castro, đổ bộ Vịnh Con Heo tháng 4-1961, nhưng thất bại. 2) Ngày 13-08-1961, Đông Đức xây bức tường ngăn
chận giữa Đông và Tây Berlin. Trong 2
ngày 27 và 28-8-1961, xe tăng Mỹ-Nga đối đầu căng thẳng tại trạm kiểm soát
Charlie của Mỹ ở bức tường nầy. Cuối
cùng hai bên đồng rút quân. 3) Từ tháng 9-1962, Liên Xô và Cuba bắt đầu xây dựng
các căn cứ hỏa tiễn ở Cuba, nhắm vào Hoa Kỳ.
Ngày 17-10-1962, Hoa Kỳ phát hiện việc nầy.Tuy xảy ra khủng hoảng, nhưng
hai bên đều tự chế. Cuộc khủng hoảng kết thúc tháng 11-1962: Liên Xô rút lui hỏa
tiễn khỏi Cuba. Hoa Kỳ rút lui hỏa tiễn khỏi Ý và Thổ Nhĩ Kỳ.
Sau
cuộc khủng hoảng Đông Đức (8-1961), tổng thống Ngô Đình Diệm hai lần đề nghị
Hoa Kỳ ký với VNCH một hiệp ước phòng thủ hỗ tương, nhưng Hoa Kỳ đều từ chối. Tổng thống Diệm đề nghị lần đầu ngày
29-9-1961 với đô đốc Harry D. Felt, tư lệnh lực lượng Hoa Kỳ tại Thái Bình
Dương. (Stanley Karnow, Vietnam A History,
New York: The Viking Press, 1983, tr. 251), và lần hai với đại tướng Maxwell
Taylor, tham mưu trưởng Liên quân Hoa Kỳ, đến Sài Gòn từ 18 đến 24-10-1961. (John
S. Bowman, The Vietnam War, Day by Day,
New York: Mallard Press, 1989, tr. 22.) Kennedy còn quyết định rút cố vấn ở NVN
về Hoa Kỳ, nhưng chưa kịp thi hành thì ông bị ám sát ngày 22-11-1963.
Đối
thủ của Kennedy, N. Khrushchev bị đảo chánh ngày
14-10-1964. Leonid Brezhnev lên thay, quay qua củng cố khối CS (vụ Tiệp Khắc),
gây hấn với Trung Cộng (vụ Ussuri) và tăng cường viện trợ cho BVN.
Báo trước cho CSVN
Hoa Kỳ tham chiến: Phó tổng thống Lyndon B. Johnson lên cầm quyền
từ 22-11-1963 đến 20-01-1969, thay đổi chính sách của Kennedy, quyết định đưa bộ
binh tham chiến ở NVN. Ngày 30-4-1964 ngoại trưởng Hoa Kỳ là Dean Rusk nhờ trưởng
đoàn Canada trong Ủy Ban Kiểm soát Quốc tế (International Control Commission)
là J. Blair Seaborn, đề nghị với BVN ngưng yểm trợ cho CS miền Nam, thì Hoa Kỳ
sẽ viện trợ kinh tế cho BVN. Khi gặp Phạm
Văn Đồng tại Hà Nội ngày 18-6-1964, Seaborn cho BVN
biết đề nghị của Hoa Kỳ và thêm rằng Hoa Kỳ không có ý tiêu diệt chế độ Hà Nội,
mà chỉ muốn hòa bình. (Mark Moyar, sđd.
tr. 307) Phạm Văn Đồng bác bỏ đề nghị của Hoa Kỳ.
Chiến tranh giới hạn: Hoa Kỳ đưa bộ binh đến Đà Nẵng ngày
8-3-1965. Trong chiến tranh Triều Tiên,
Hoa Kỳ tấn công Bắc Triều Tiên để phòng thủ Nam Triều Tiên, tức lấy công làm thủ.
Trung Cộng phản ứng, giúp Bắc Triều Tiên, đẩy lui quân Hoa Kỳ. Lần nầy, Hoa Kỳ muốn tránh sự can thiệp của
Trung Cộng, chỉ giúp VNCH phòng thủ ở NVN. Điều nầy nằm trong kế hoạch “chiến tranh
giới hạn”. Đô đốc Ulysses Simpson Grant Sharp, tư lệnh Lực lượng Hoa Kỳ tại
Thái Bình Dương (từ 1964 đến 1968) đã tiết lộ về chiến tranh giới hạn, tạm dịch
như sau: “Chính phủ chúng ta [Hoa Kỳ]
lập lại rõ ràng nhiều lần rằng các mục
tiêu tranh chấp ở Việt Nam rất giới hạn.
Chúng ta không được tiêu diệt chế độ Hà Nội, không cưỡng ép dân chúng Bắc
Việt Nam phải thay đổi nhà cầm quyền, và không tàn phá Bắc Việt Nam. Chúng ta chỉ đơn giản muốn Bắc Việt Nam ngừng
điều khiển và yểm trợ Việt cộng nổi dậy ở trong Nam và đưa lực lượng Bắc Việt
Nam trở ra Bắc. Chiến lược điều khiển
chiến tranh của chúng ta phản ảnh những mục tiêu giới hạn trên đây.”
(William D. Pawley & Richard R. Tryon, Jr., Why the Communists are Winning as of 1976 and How They Lost in 1990,
http://www.gratisbooks.com/.)
Thật
rất khó khăn khi phòng thủ một vùng rộng lớn nhiều rừng núi như NVN để đối phó
với chiến tranh du kích của CS. Muốn chống du kích, thì phải chận đứng nguồn
tiếp tế cho du kích. Không được tiếp liệu, du kích sẽ thiếu điều kiện để họat động. Nếu không đánh BVN, thì BVN liên tục tiếp tế
cho CS ở NVN, quanh năm nuôi dưỡng du kích CS ở NVN, nên khó có thể tiêu diệt hết
được du kích CS ở NVN.
Ngoài
việc giới hạn mục tiêu, bộ Quốc phòng Hoa Kỳ còn buộc quân đội của mình phải
tuân thủ những quy tắc tham chiến (rules of engagement) tức những quy tắc ứng xử
khi lâm chiến, như một thứ cẩm nang chiến tranh. Những quy tắc tham chiến còn nhằm ngăn ngừa
và giới hạn những ngẫu biến có thể làm bùng nổ những tranh chấp bất ngờ ở vùng
biên giới Hoa Việt hay vùng phi quân sự (vĩ tuyến 17), nhất là do những hoạt động
của Không quân. (Spencer C. Tucker, Encyclopedia
of the Vietnam War, a Political, Social,
and Military History, Vol. two, Santa Barbara, California: ABC-CLIO, 1998,
tt. 625-626.)
Những
quy tắc nầy do bộ Quốc phòng Hoa Kỳ soạn thảo, thay đổi, thêm bớt tùy hoàn cảnh
và giai đoạn, quy định những hạn chế phức tạp mà quân đội Hoa Kỳ phải tuân hành
ở Đông Dương.(J. Terry Emerson, How Rules
of Engagemnet Lost Vietnam War, Human Events, Vol. 45, No. 20, May 18,
1985.)
Những
quy tắc tham chiến hạn chế các mục tiêu tấn công và hạn chế nhiều nhứt là hoạt
động của phi cơ. Trong chiến tranh hiện đại, quan trọng nhứt trên chiến trường
là hỏa lực yểm trợ. Quân đội CS dựa vào
hỏa lực yểm trợ của xe tăng, thiết giáp.
Quân đội Hoa Kỳ dựa vào hỏa lực yểm trợ của phi cơ. Giới hạn hoạt động của
phi cơ, sẽ giới hạn hỏa lực yểm trợ, làm giảm sức mạnh của quân đội Hoa Kỳ. Ai
vi phạm sẽ bị trừng phạt tùy theo mức độ.
Ví dụ đại tướng John Daniel Lavelle, chỉ huy Không lực Hoa Kỳ tại Việt
Nam, bị cất chức tháng 3-1972, giáng hạ hai cấp và về hưu trí, vì ông đã ra lệnh
oanh kích những mục tiêu giới hạn. (John S. Bowman, sđd. tr.198.) (Xem thêm Google: John Daniel Lavelle.)
Tác
giả Steve Farrell, trong sách Why We Lost
in Vietnam - The Untold Story, cho rằng “Những quy tắc nầy bảo đảm rằng chúng ta [Hoa Kỳ] không thể thắng, và cộng sản không thể thua.”
(Steve Farrell, Why We Lost in Vietnam -
The Untold Story, University of Toronto, School of Continuing Studies, The
Moral Liberal.) Thượng nghị sĩ Barry Goldwater, bang Arizona, gọi đây là “no win policy” (chính sách không thắng).
(The Bryan Times, Thursday April 17,
1975, tr. 6. http://news.google.com/newspapers.)
Đánh
trận mà không thắng không thua để làm gì thì Hoa Kỳ lúc đó không cho biết lý
do, nhưng chắc chắn chiến tranh sẽ kéo dài trên chiến trường NVN; và Hoa Kỳ có
thời gian tiêu thụ cho hết số võ khí tồn kho của Hoa Kỳ từ thời thế chiến thứ
hai và thời chiến tranh Triều Tiên (1950-1953), thử nghiệm một số võ khí mới của
Hoa Kỳ (súng M16 hay AR15, phi cơ B52, bom chùm …), và theo dõi, nghiên cứu những
loại võ khí mới của Liên Xô viện trợ cho quân đội CS sử dụng ở Việt Nam (súng AK-47,
xe tăng T54...).
Hoa Kỳ ngăn cản đề
nghị bắc tiến của Quân đội VNCH: Theo
các tướng lãnh VNCH, muốn chận đứng du kích CS ở NVN, thì phải tấn công BVN để
BVN ngưng tiếp tế cho CSNVN, nhưng đều bị Hoa Kỳ chận đứng. 1) Ngày 19-7-1964, thủ tướng Nguyễn Khánh
công khai hô hào bắc tiến. (John S. Bowman, sđd.
tt. 42.). Kết quả, Nguyễn Khánh bị các
tướng trẻ đẩy ra nước ngoài làm đại sứ.
2)
Ngày 1-12-1965, trung tướng Nguyễn Chánh Thi, tư lệnh Vùng I Chiến thuật kiêm
tư lệnh Quân đoàn I viết thư cho chính phủ đưa đề nghị bắc tiến,và đề nghị với cả
Tòa đại sứ Mỹ ở Sài Gòn. (Nguyễn Chánh Thi, Việt
Nam, một trời tâm sự, California: Nxb. Anh Thư, 1987, tt. 319-334.). Kết quả, sau vụ biến động miền Trung, tướng
Thi được đưa qua Hoa Kỳ chữa bệnh thối mũi tháng 7-1966.
3)
Theo đại tướng Cao Văn Viên, vào năm 1966, ông đưa ra một chiến lược 7 điểm,
trong đó điểm thứ 6 là đổ bộ lên Vinh (tỉnh Nghệ An) hay Hà Tĩnh (tỉnh Quảng
Bình), nhưng không được thi hành. (Cao Văn Viên, Những ngày cuối của Việt Nam Cộng Hòa, Virginia: Vietnam bibliography,
2008, tr. 288.)
4)
Cũng trong năm 1966, nhận thấy quân BVN qua vùng phi quân sự (Quảng Trị), tướng
William Westmoreland đề nghị với bộ Quốc phòng Hoa Kỳ lập phòng tuyến KANZUS,
chận ngang khu phi quân sự. KANZUS tức Korea, Australia, New Zealand và United
States. Đại sứ các nước nầy tại Sài Gòn đều chấp thuận kế hoạch KANZUS, nhưng bị
Washington DC bác bỏ. (William C. Westmoreland, A Soldier Reports, New York: Da Capo Press, 1989, tr. 197.)
5)
Khi mở cuộc hành quân Lam Sơn 719,
tháng 1-1971, tổng thống Nguyễn Văn Thiệu đề nghị VNCH đưa một sư đoàn tiến qua
bắc vĩ tuyến 17 nhằm đánh lạc hướng CS, nhưng Hoa Kỳ từ chối. (Nguyễn Tiến Hưng
và J.L. Schecter , Hồ sơ mật dinh Độc Lập,
Los Angeles: C & K Promotions, Inc., tr. 75 và tr. 116.)
6)
Trong mùa hè năm 1972, BVN tràn quân qua vĩ tuyến 17, tấn công VNCH. Quân đoàn I đề nghị đánh thẳng qua sông Bến Hải,
nhưng cố vấn Mỹ không đồng ý. Lo ngại
Quân đoàn I có thể tự ý tiến quân ra BVN, các cố vấn Mỹ giới hạn việc tiếp vận
cho Lữ đoàn 1 Kỵ binh 20 gallons xăng mỗi ngày cho một xe, đạn pháo binh chỉ được
bắn 5 quả mỗi ngày cho một khẩu và ngưng tiếp tế lương khô cho Lữ đoàn. (Hà Mai
Việt, Thép và Máu, Thiết giáp trong chiến
tranh, Texas: 2005, tr. 103.)
Hoa Kỳ thay đổi
sách lược và lui quân: Trong khi cuộc chiến đang tiếp diễn, bên
trong Hoa Kỳ, phong trào phản chiến nổi lên mạnh mẽ, thì vào cuối thập niên 60,
người Hoa Kỳ nhận ra rằng: 1) Chiến tranh giới hạn của Hoa Kỳ ở NVN không thành
công, số tử vong của quân đội Hoa Kỳ càng ngày càng cao. 2) Dựa trên quan niệm
địa chính trị học (geopolitics), các chính trị gia Hoa Kỳ thấy rằng "Bắc Việt không thể tàn phá Hoa Kỳ trong vòng
nửa giờ, hoặc tiêu hủy các thành phố, giết một nửa dân số, nhưng với hỏa tiễn
nguyên tử, Liên Xô có thể làm được việc đó.
Trung Quốc tuy chưa ngang tầm của Liên Xô vì ít võ khí nguyên tử, nhưng
lại đe dọa phần còn lại của Á châu vì ý hệ chính trị cứng rắn và vì dân số đông
đảo của họ… Hy sinh Nam Việt Nam mới thật là đáng giá. Còn hơn là hao phí thêm nhiều sinh mạng người
Mỹ và hàng tỷ mỹ kim để chống đỡ Nam Việt Nam mà ít hy vọng thắng lợi, tại sao
không thỏa thuận thua cuộc để đổi lấy sự mở cửa Trung Quốc nhắm làm yếu đi kẻ
thù thực sự là Liên Xô." (Roger Warner, Shooting at the Moon, Steerforth Press, South Royalton, Vermont,
1996, tt. 333- 334, tr. 336.)
Trong
cuộc bầu cử tổng thống tháng 11-1968, ứng cử viên Richard Nixon (Cộng Hòa) hứa
sẽ chấm dứt chiến tranh, đem lại “hòa bình trong danh dự” cho Hoa Kỳ. Đắc cử và
cầm quyền từ 20-1-1969, Nixon đưa ra kế
hoạch “Việt Nam hóa chiến tranh”, chuyển giao trách nhiệm chiến đấu cho quân đội
VNCH, nhưng thực tế là Hoa Kỳ bỏ cuộc, rút quân về nước. Nixon còn tìm cách liên lạc với Trung Cộng.
Cố
vấn An ninh Quốc gia Hoa Kỳ lúc đó là Henry Kissinger, một người Mỹ gốc Do Thái,
bí mật đến Bắc Kinh ngày 9-7-1971. Trong
cuộc gặp thủ tướng Trung Cộng là Châu Ân Lai, về vấn đề Việt Nam, Kissinger cho Châu Ân Lai biết: “Chúng tôi sửa soạn rút quân hoàn toàn ra khỏi
Đông Dương và ấn định ngày giờ rút quân, nếu có một cuộc ngưng bắn và phóng
thích tù binh của chúng tôi. Thứ đến,
chúng tôi sẽ để cho giải pháp chính trị của Nam Việt Nam tự diễn biến và phó mặc
cho một mình người Việt.” (Nguyễn Tiến Hưng, Tâm tư tổng thống Thiệu, California: Cơ sở Hứa Chấn Minh, 2010, tr.
617.) Trong cuộc họp hôm sau, Kissinger nói thêm: “Điều chúng tôi yêu cầu là một khoảng thời gian chuyển tiếp giữa sự rút
quân và diễn biến chính trị. Không phải
là để chúng tôi có thể trở vào lại [Việt Nam], nhưng chúng tôi có thể để cho dân tộc Việt Nam và dân tộc các nơi khác ở
Đông Dương tự quyết định lấy số phận của họ... Nếu sau khi quân đội Mỹ rút lui
hoàn toàn, mà các dân tộc Đông Dương thay đổi chính quyền của họ, Hoa Kỳ sẽ
không can thiệp.” (Nguyễn Tiến Hưng, sđd.
tr. 624.)
Tại
Đại hội đồng thứ 26 của Liên Hiệp Quốc, Hoa Kỳ không phủ quyết cuộc biểu quyết
ngày 25-10-1971, theo đó Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa (CHNDTH) tức Trung Cộng được
cử giữ ghế đại biểu Trung Hoa tại LHQ, thay cho Trung Hoa Dân Quốc (Đài
Loan). Ghế Trung Cộng tại LHQ là ghế hội
viên thường trực, có quyền phủ quyết tại Hội đồng Bảo an LHQ.
Trong
cuộc viếng thăm Trung Cộng từ 21-2-1972, tổng thống Hoa Kỳ Richard Nixon họp lần
đầu với Châu Ân Lai,ngày 22-2-1972, đã đề cập ngay đến vấn đề Việt Nam: “Chúng tôi đã đề nghị rút hết người Hoa Kỳ,
mà không để cái “đuôi” đàng sau - như cách nói của Thủ tướng - và ngưng bắn
trên toàn Đông Dương, miễn là chúng tôi lấy lại được tù binh. Sau đó, chúng tôi sẽ để cho dân chúng ở đó tự
quyết định.” (Nguyễn Tiến Hưng, sđd.
tr. 627.) Trước khi phái đoàn Hoa Kỳ về nước, Nixon và Châu Ân Lai ký kết bản
"Thông cáo chung" tại Thượng Hải (Shanghai) ngày 28-2-1972, gồm 16 điều. Quan trọng nhứt là những điều hai bên công nhận
lẫn nhau, và Hoa Kỳ công nhận chỉ có một nước Trung Hoa.
Sau
khi Richard Nixon về nước, Châu Ân Lai đến Hà Nội ngày 4-3-1972, thuật lại cho
giới lãnh đạo đảng Lao Động nội dung cuộc gặp gỡ giữa Trung Cộng và Hoa Kỳ, báo
cho BVN biết Hoa Kỳ sẽ rút quân về nước, đồng thời tái khẳng định sự ủng hộ của
Trung Cộng đối với BVN. (Qiang Zhai, sđd. tr. 200.)
Từ
19 đến 23-6-1972 Henry Kissinger qua Bắc Kinh lần nữa. Trong cuộc gặp ngày
22-6-1972, Kissinger mở lời với Châu Ân Lai rằng: “Nếu chúng tôi có thể sống với một chính phủ cộng sản ở Trung Hoa, chúng
tôi phải có khả năng chấp nhận điều đó ở Đông Dương.” (Nguyễn Tiến Hưng, sđd. tt. 638-642.) Kissinger còn nói thẳng ra rằng việc CSVN xâm
lăng NVN bằng võ lực có thể được chấp nhận nếu xảy ra vào một thời gian lâu đủ
sau khi Hoa Kỳ rút quân.(Nguyễn Tiến Hưng, sđd.
tt. 638-642.)
Trong
khi đó, Hoa Kỳ tiếp tục thúc đẩy cuộc hòa đàm Paris giữa Việt Nam Cộng Hòa, Hoa
Kỳ, Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa và Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam Việt Nam. Ngày 27-1-1973, bốn bên ký Hiệp định chấm dứt chiến tranh và lập lại
hòa bình ở Việt Nam (Agreement on
Ending the War and Restoring Peace in Vietnam). Cũng trong ngày 27-1-1973,
Hoa Kỳ bãi bỏ luật động viên ở Hoa Kỳ. Sau đó, Hoa Kỳ đưa hết tù binh bị BVN cầm
giữ vế nước, yên lòng dân chúng Mỹ. Phong trào phản chiến chấm dứt.
Sau hiệp định Paris, Hoa Kỳ rút hết quân về nước. Hoa
Kỳ cũng giảm thiểu gần như chấm dứt viện trợ cho VNCH. Vào tháng 2-1975, các loại
đạn dược tồn kho VNCH chỉ đủ dùng trong khoảng 30 ngày. (Cao Văn Viên, sđd. tr. 92.) Trong khi cả khối CS đang
dồn viện trợ cho BVN tấn công NVN, và VNCH một mình can đảm tiếp tục chiến đấu
chống CS, thì bộ trưởng Ngoại giao của Hoa Kỳ là Henry Kissinger lại trù ẻo
VNCH: “Tại sao họ không chết lẹ đi cho rồi? Điều tệ nhất có thể xảy ra là họ cứ sống dai
dẳng hoài.”(Lời của Henry Kissinger nói với Ron Nessen. Ron Nessen thuật lại
trong sách It Sure Looks Different from
the Inside, Chicago: Playboy Press, 1978, tr. 98. Nguyễn Tiến Hưng và Jerrold L. Schecter trích
dẫn, Hồ sơ mật dinh Độc Lập, Los
Angeles: C & K Promotions, Inc., 1987, tr. 512.)
KẾT
LUẬN
Do
CSBVN gây chiến, nên VNCH phải chiến đấu để tự vệ. Vì yếu thế trước sức tấn công của BVN và cả
khối CS, VNCH phải nhờ Hoa Kỳ giúp đỡ và viện trợ. Hoa Kỳ đến giúp VNCH theo những tính toán
riêng của Hoa Kỳ trong việc ngăn chận sự bành trướng của chủ nghĩa CS, nhứt là
Trung Cộng xuống Đông Nam Á.
Hoa
Kỳ là nước tự do dân chủ. Tự do dân chủ là điều ai cũng thích, nhưng tự do dân
chủ cũng có điểm bất lợi trong chiến tranh, vì chính sách thay đổi theo nhiệm kỳ
của từng đời tổng thống. Tổng thống
Eisenhower chủ trương cứng rắn, bảo vệ Lào để bảo vệ NVN. Kennedy mềm mỏng sau vụ Vịnh Con Heo (tháng
4-1961), ký hiệp ước trung lập Lào năm 1962, khiến cho quân BVN dễ xâm nhập vào
Lào, rồi tiến xuống NVN. Johnson tăng
quân, đẩy cuộc chiến lên cao độ. Nixon đưa ra Việt Nam hóa để rút quân.
Lạ
lùng là khi đưa quân vào NVN, Hoa Kỳ báo trước cho BVN. Khi rút quân, Hoa Kỳ
báo cho Trung Cộng biết, thì cũng như báo trước cho BVN biết. Hoa Kỳ chủ trương chiến tranh giới hạn, đưa ra
những quy tắc tham chiến, không đánh BVN bằng Bộ binh, nên không chận được nguồn
tiếp tế cho CS ở NVM và không tiêu diệt được du kích CS ở NVN. Hoa Kỳ chỉ muốn làm thế nào cho CS rút quân về
BVN, mà hai bên không thắng và không thua.
Khi bắt tay được với Trung Cộng, thì Hoa Kỳ bỏ rơi NVN.
Đành
rằng Hoa Kỳ là một cường quôc trên thế giới, nền ngoại giao rất đa đoan, phức tạp.
Chính sách của Hoa Kỳ dưới thời bất cứ tổng thống nào cũng chỉ phục vụ quyền lợi
của dân chúng Hoa Kỳ, nhưng dù sao, như lời tổng thống Trần Văn Hương nói với đại
sứ Hoa Kỳ Graham Martin trước khi chia tay vào tháng 4-1975: “Đã đến đỗi như vậy, Hoa Kỳ cũng có phần
trách nhiệm trong đó.” (Trần Đông Phong, Việt Nam Cộng Hòa 10 ngày cuối cùng, California: Nxb. Nam Việt,
2006, tr. 353.)
Chính
quyền Hoa Kỳ hành động vì quyền lợi của Hoa Kỳ là chuyện hoàn toàn hợp lý với
công dân Hoa Kỳ, nhưng điều nầy cần phải cân bằng với quyền lợi của đồng minh,
và tránh gây tác hại cho các nước đồng minh trong cuộc. Nếu không, Hoa Kỳ có thể làm mất niềm tin nơi
các đồng minh của Hoa Kỳ, chẳng những ở Đông Nam Á mà cả trên thế giới.
TRẦN
GIA PHỤNG
(Texas,
tháng 4-2020)
No comments:
Post a Comment