MƯU ĐỘC NGÀN NĂM:
Từ Cuộc Khởi Nghĩa của Hai Bà
Trưng
đến Cột
Đồng Mã Viện
Hậu
Thế Đã Có Những Nhận Xét Gì Về Những Biến Cố Này?
“Đồng trụ chiết,
Giao Chỉ Diệt”
Mã Viện
Cột đồng chìm
chín suối,
Bia
đá rọi ngàn thu.
Đặng Văn Bá (1877 - 1942)
Cột
đồng Đông Hán tìm đâu thấy
Chỉ
thấy Tây Hồ bóng nước gương.
Thái Xuyên Hoàng Cao Khải (1850 - 1933)
Cuộc
khởi nghĩa của Hai Bà Trưng là cuộc khởi nghĩa đầu tiên của người
Việt nhằm đánh đuổi người Tầu, giành lại nền độc lập cho dân tộc
sau một trăm năm mươi năm nước ta bị Nhà Hán đô hộ. Cuộc khởi nghĩa này rất quan trọng vì
nó không phải chỉ xảy ra ở một địa phương nhỏ bé, xa xôi, tương xứng
với hai huyện Mê Linh và Châu Diên thuộc quận Giao Chỉ mà thôi mà được
toàn thể các quận huyện khác từ Cửu Chân ở phía nam tới Hợp Phố
trên lãnh thổ Trung Hoa hiện tại ở phía bắc hưởng ứng.
Nó đã làm rung động triều đình Nhà Hán, khiến cho Nhà Hán
phải cử viên lão tướng danh tiếng nhất đương thời là Mã Viện sang
đánh và phải mất hai năm dài sửa soạn mới phản công được. Chưa hết, cuộc phản công này cũng đã vô
cùng gian nan, vất vả chứ không dễ dàng như người ta tưởng. Cuộc khởi nghĩa của Hai Bà Trưng do đó
đã được dành cho những chỗ đứng vô cùng quan trọng trong lịch sử và
văn học nước
nhà. Bài này nhằm giới thiệu đến
các độc giả một số những nhận định của các sử gia và các nhà trí thức sau này về
Hai Bà. Tuy nhiên, để các bạn trẻ
có thể dễ dàng có những nhận định riêng và chính xác của mình,
tác giả cũng xin được tóm tắt những sự kiện chính
cần biết về cuộc khởi
nghĩa này và đặc biệt về cuộc kinh lý của Mã viện sau đó cũng như
việc Mã Viện dựng cột đồng cắm mốc kèm theo lời nguyền vô cùng độc
ác: “Đồng trụ chiết, Giao Chỉ
diệt” của viên tướng nổi tiếng qua tước hiệu Phục Ba Tướng Quân
trong lịch sử Trung Hoa này. Chuyện
người Tầu chủ trương tiêu diệt người Việt như vậy đã xảy ra từ cách
đây cả hai ngàn năm trước chứ không phải đợi đến tận ngày nay, dưới
thời hai nước Cộng Sản anh em.
Cuộc
Khởi Nghĩa
Nguyên nhân
Theo các sử cũ của ta, nguyên nhân của cuộc khởi
nghĩa này là sự tham tàn của Thái Thú Tô Định và việc Tô Định giết
chồng Bà Trưng Trắc là Thi Sách.
Nhưng gần đây các nhà nghiên cứu hiện đại [1] đã đưa ra nhiều nguyên nhân sâu xa hơn và đã giải
thích cặn kẽ hơn, theo đó ta có thể kể:
Nguyên nhân sâu xa: Những sự thay đổi trong chính sách cai
trị của người Tầu và những sự va chạm về quyền lợi giữa người Tầu và người Việt trong
những năm đầu của Thế kỷ Thứ Nhất Sau Tây Lịch. Những biến cố này đã xảy ra khi Vương
Mãng cướp ngôi nhà Hán (9-23 sau T. L.). Một số đông
các quan lại và Nho Sĩ người Tầu, vì trung thành với Nhà Hán, không
chịu phục vụ triều đình mới đã dời bỏ miền Bắc di cư xuống ẩn náu
ở các quận miền Nam thuộc Giao Chỉ Bộ.
Tại đây, nhờ Thứ Sử Đặng Nhượng và các thái thú các quận như
Tích Quang, Đỗ Mục đóng cửa các miền biên cảnh để phòng giữ nên
tình hình rất yên tĩnh. Sự di cư
xuống miền Nam của những thành phần này đã làm tăng thêm con số
người Tầu tới lập nghiệp ở các quận huyện miền Nam. Chúng đã giúp cho kỹ thuật, ngôn ngữ
và văn hóa của người Tầu được phổ biến kèm theo với sự phát triển
của nền kinh tế bản xứ, nhưng mặt khác đã gây ra những va chạm về
địa vị, quyền lợi và phong tục giữa họ và người dân bản xứ, đặc
biệt là các nhà quý tộc. Trong
hoàn cảnh này chắc chắn họ đã góp những phần không nhỏ vào sự
hoạch định và thi hành các chính sách đồng hóa của các quan lại
địa phương như Tích Quang và Nhâm Diên, nhờ thủ đoạn khôn khéo của hai
viên thái thú này đã trấn áp được nhân tâm người Lạc Việt, từ đó
không có gì nghiêm trọng xảy ra. [2]
Tình hình đã thay đổi khi Tô Định xuất hiện.
Nguyên nhân trực tiếp: Sự tham lam, tàn bạo của Thái Thú Tô
Định và việc viên thái thú này
giết Thi Sách, chồng Bà Trưng Trắc.
Đây là nguyên nhân chính mà sử cũ của ta và sử của Nhà
Hán thường nói đến: Năm Giáp Ngọ, niên hiệu Kiến Võ thứ 16, Nhà Đông Hán cử Tô Định sang làm thái thú quận Giao
Chỉ. Là người tham lam, tàn bạo[3],
Tô Định đã triệt để dùng luật pháp để ràng buộc người dân bản xứ,
đặc biệt là giới quý tộc, sau đó lại giết Thi Sách, người huyện
Châu Diên[4]
là chồng Bà Trưng Trắc, con gái vị Lạc Tướng của huyện Mê Linh. Sự giết Thi Sách nà có lẽ nhằm mục
đích diệt các mầm mống khởi nghĩa của người Lạc Việt ngay từ trong
trứng nước, đặc biệt là của hai nhóm quý tộc lớn ở Châu Diên và Mê Linh. Nó đã trực tiếp châm ngòi cho cuộc
tổng nổi dậy.
Cuộc
khởi nghĩa
Cuộc khởi nghĩa đã xảy ra và đã thành công một
cách mau chóng. Trưng Trắc đã cùng
với em là Trưng Nhị tấn côngthành Liên Lâu, nơi Tô Định đóng trị sở và
đã chiếm được thành này, khiến Tô Định phải bỏ chạy về Nam
Hải. Đại thắng này đã đưa tới sự
hưởng ứng của tất cả dân chúng các quận Cửu Chân, Nhật Nam và Hợp
Phố. Hai Bà đã thu được cả thảy 65
thành trì trong vùng Lĩnh Nam và tự lập làm vua,
đóng đô ở Mê Linh. Các thứ sử và
thái thú chỉ chạy được thoát thân mà thôi.
Cuộc khởi nghĩa của Hai Bà Trưng như vậy không
phải chỉ là một cuộc nổi dậy ở một địa phương thuộc quận Giao Chỉ
mà thôi mà là cuộc tổng nổi dậy của toàn thể nhân dân các thuộc
địa miền Nam của Nhà Hán chạy suốt từ Cửu Chân, Nhật Nam trên lãnh
thổ Việt Nam hiện tại cho đến Hợp Phố trên lãnh thổ Trung Hoa. Nó đã làm rung động triều đình Trung
Hoa. Mọi cố gắng của địa phương để
phục hồi uy quyền của các quan lại Nhà Hán đều không thể thực hiện
được. Ngay cả triều đình trung ương
của họ cũng phải bó tay ít ra là trong suốt hai năm đầu. Trong hai năm này họ đã cho sửa soạn
một cuộc tái xâm lược các thuộc địa đã mất một cách hết sức quy mô
và kỹ càng. Các quận huyện từ
Trường Sa trở xuống đã được lịnh dự bị xe cộ, thuyền bè, đào nương,
bắc cầu để vượt qua các khe núi và trữ sẵn lương thực. Đến tháng 12 năm Kiến Võ thứ 17
(tháng Giêng năm 42 sau T. L.), Mã Viện, viên lão tướng danh tiếng nhất của triều đình Nhà
Hán đương thời, người vừa mới thành công trong việc dẹp loạn Lý
Quảng ở Hoãn Thành, An Huy, được phong làm Phục Ba Tướng Quân để đem
quân tái chiếm lại Giao Chỉ. Phụ
tá cho Mã Viện có Phù Lạc Hầu Lưu Long làm phó và Đoàn Chính làm
Lâu Thuyền Tướng Quân.
Đại quân của Mã Viện gồm hơn mười ngàn người lấy
ở các quận Trường Sa, Quế Dương,
Linh Lăng, Thương Ngô, mười hai ngàn người lấy ở các quận thuộc Giao
Chỉ Bộ và thuyền xe lớn nhỏ hai ngàn chiếc. Bộ binh theo đường từ Hồ Nam xuống địa
phận của các tỉnh Quảng Đông, Quảng Tây hiện tại để hợp với thủy
quân của Đoàn Chí ở Hợp Phố. Nhưng
đến đây thì Đoàn Chí bị bịnh chết.
Hán Đế hạ chiếu cho Mã Viện men theo bờ biển để tiến
quân. Theo các sử gia hiện đại thì
viên tướng này có thể đã theo đường Quảng Yên để vào miền lưu vực
Sông Thái Bình, trong khi lâu thuyền có lẽ đã theo đường Sông Bạch
Đằng kéo vào. Cuộc tiến quân không
mấy gặp trở ngại. Sự kháng cự
chỉ thực sự bắt đầu khi quân Hán tới địa phận Tây Lý (Vu)là căn cứ của An Dương Vương xưa kia, sau đó đã mỗi
ngày một trở nên ác liệt khiến Mã Viện phải rút quân về miền giữ
Tây Lý và Lãng Bạc. Tình cảnh quân
Nhà Hán vào lúc này, theo như chính lời Mã Viện kể lại , vô cùng
gian nan vất vả: “Quân địch chưa dẹp
yên. Trên thì mưa, dưới thì
lụt. Mây mù, khí độc bốc lên ngùn
ngụt. Trông lên thất con diều đương
bay bỗng rớt xuống nước chết” [5]. Tất cả chỉ chấm đứt khi quân Hai Bà
từ Mê Linh kéo ra đại tấn công quân Mã Viện ở Lãng Bạc và bị thất
bại. Hai Bà sau đó phải rút quân
về Cấm Khê. Tại đây theo Lưu Long
Truyện chép trong Hậu Hán Thư,
Trưng Nhị đã bị viên phó tướng này bắt sống. Còn theo Mã Viện Truyện, cũng chép
trong Hậu Hán Thư, thì Mã Viện đã đánh bại nghĩa quân
thêm ít trận nữa. Cuối cùng tháng
Giêng năm sau chém được cả Hai Bà, gửi đầu về Lạc Dương.
Theo
dã sử của ta, Hai Bà đã trầm mình xuống Sông Hát Giang tự tận. Cuộc hành quân của Mã Viện đến đây chưa
chấm dứt, vì sau đó viên tướng này còn phải tiến sâu xuống Cửu Chân
để dẹp tàn quân của Hai Bà do Tướng Đô Dương cầm đầu. Sự chống cự vô cùng mãnh liệt. Mã Viện đã phải thống suất lâu thuyền
lớn nhỏ hơn hai ngàn chiếc, sĩ tốt hơn hai vạn người tấn công quân Đô
Dương suốt từ huyệnVô Công đến huyện Cư Phong, chém và bắt được hơn
hai ngàn người.
Những cải tổ thâm độc của
họ Mã
Song song với cuộc đàn áp các thành phần còn lại
của cuộc khởi nghĩa của Hai Bà Trưng, tàn sát hàng ngàn người Việt
ở hai huyện Vô Công và Cư Phong thuộc quận Cửu Chân, Mã Viện đã tức
thời thực hiện những công tác củng cố lại quyền kiểm soát và cải
tổ lại toàn bộ chính sách cai trị của Nhà Đông Hán. Ông đã cho dựng hay dựng lại những thành
quách, đặt quân đội trú đóng để phòng ngừa những cuộc nổi dậy
khác, đặt tỉnh ấp, đặc biệt là dựng thành Kiển Giang ở Phong Khê [6]. Các đơn vị hành chánh cũng được phân
chia lại, điển hình là huyện Tây Vu.
Huyện này có tới ba vạn ba ngàn (33.000) nhà nên đã được Mã Viện xin với vua Nhà Hán chia làm hai huyện nhỏ là
Phong Khê và Vọng Hải. Vua Hán đã
chấp thuận. Quan trọng hơn nữa, ông
đã tổ chức lại guồng máy hành chánh bằng cách áp dụng lối tổ
chức như bên chính quốc, nhằm loại trừ giới quý tộc bản xứ, điển
hình là các lạc hầu, lạc tướng.
Giới này một phần bị tàn sát, một phần phải bỏ chạy lên các
vùng rừng núi. Hàng trăm gia đình
khác đã bị đầy sang Hoa Nam Phần
còn lại bị tước đoạt hết những ưu
quyền và vai trò của thời cũ.
Riêng chỉ những thành phần lãnh đạo cấp dưới, tương đương với
các làng xã là còn tồn tại nhưng bị lệ thuộc chặt chẽ vào chính
quyền trung ương. Những người này
đã phải hòa đồng với các thành phần cai trị khác từ chính quốc
sang hay các di dân người Tầu, từ đó một thứ quý tộc bản xứ mới đã
nảy sinh và sẽ đóng những vai trò quan trọng trong những biến cố về
sau này. Về mặt luật pháp, Mã
Viện đã tiếp tục những gì các quan lại Nhà Hán đã làm trước đó
là đem luật của người Tầu áp dụng vào xã hội của người Việt, buộc
người Việt phải theo pháp luật Tầu.
Ông đã tâu lên Vua Hán về mười điều khác biệt giữa luật của
người Tầu và luật của người Việt, đã đem luật Tầu dạy cho người
Việt. Về phương diện kinh tế, trong
thời gian hành quân, Mã Viện đã cho xẻ núi, đào sông, đắp đường, từ
đó đã giúp cho sự giao thông giữa các địa phương được trở nên dễ
dàng hơn.
Toàn
bộ các ông trình kể trên của Mã Viện đã được hoàn thành vào cuối
năm 43
và năm sau thì ông về nước mang theo rất nhiều
trống đồng Lạc Việt, sau khi đã dựng những cột đồng làm ranh giới.
Đồng
trụ chiết, Giao Chỉ diệt
Về vị trí của những cột đồng này, người ta không được rõ một
cách chính xác. Theo Đại Việt Sử Ký Toàn Thư thì Mã
Viện đã dựng những cột đồng này sau khi đã thanh toán được những
tàn quân của Hai Bà do Tướng Đô Dương chỉ huy ở Cửu Chân “làm giới
hạn cuối cùng của Nhà Hán”. Như
vậy những cột đồng này phải nằm ở phía nam của huyện Cư Phong thuộc
quận Cửu Chân. Nhưng ngay sau đó,
cũng trong sách nàyngười ta lại đọc được là “cột đồng tương truyền
là ở trên động Cổ Lâu thuộc Khâm Châu”.
Khâm Định Việt Sử Thông Giám Cương Mục cũng chép việc dựng
cột đồng đằng sau câu nói về việc Mã Viện hàng phục được Tướng Đô
Dương và tàn quân của Hai Bà ở Cư Phong.
Sau đó các tác giả của bộ sử này lại dẫn theo tác phẩm Thủy Kinh Chú của Lịch Đào nguyên
cho biết Mã Viện đã dựng kim tiêu tức cây nêu bằng kim loại làm ranh
giới cực nam của nước Tầu, cùng nhiều sách khác tương tự bên cạnh
bộ Nhất Thống Chí của Nhà Thanh
nói về cột đồng ở động Cổ Sâm ở Khâm Châu. Như vậy ta có thể nghi Mã Viện dựng
nhiều cột đồng ở hai địa điểm khác nhau, một ở cực namcủa Giao Chỉ
bộ thuộc huyện Cư Phong và một ở Khâm Châu phía bắc để đánh dấu
miền đất mà ông đã tái chinh phục được.
Riêng ở địa điểm thứ hai này, ông đã ghi câu thề “Đồng
trụ chiết, Giao Chỉ diệt”
(Cột đồng gãy thì Giao Chỉ diệt)
khiến
cho người dân Việt mỗi khi đi qua
lại lấy đá chất vào thành gò đống vì sợ cột gẫy.
Một nhận xét khác cần được nêu lên ở đây là Mã
Viện đã lấy đồng ở đâu ra để đúc các cột đồng này? Phải chăng đó là từ các đồ đồng của
dân Lạc Việt trong đó có các trống đồng mà viên tướng này đã đem
một số về Tầu? Điều này chứng tỏ
là ở thời này văn minh đồ đồng của người Lạc Việt đã phát triển
rất mạnh và Mã Viện trong khi hành quân đã tịch thu được rất nhiều
đồ đồng của các nhà quý tộc bản xứ.
Những đồ đồng này có thể do không dủng làm gì được vì người
Tầu hồi đó đã dùng toàn đồ sắt, hoặc có thể là vì những trống
đồng là biểu trưng cho quyền uy của các nhà quý tộc nên phải bị tiêu hủy, do đó đã được đem
nấu chảy để làm cột đồng dựng ở hai điểm trọng yếu làm mốc cho
những miền đất của người Lạc Việt cũ mà Mã Viện đã tái thu phục
được, coi như những biểu tượng của chiến thắng vĩ đại của mình và
của người Tầu, bên cạnh sự tan biến và bị tiêu diệt hoàn toàn của
uy quyền và thế lực của giới quý tộc bản xứ. Vấn đề, tuy nhiên, còn cần được khảo
cứu tường tận hơn vì rất có thể tất cả chỉ là truyền thuyết, vả
lại vị trí của các cột đồng này đã không cố định mà đã di chuyển
theo ranh giới phương nam của đế quốc Trung Hoa.
Tầm
quan trọng lớn lao và hậu quả của cuộc khởi nghĩa
Cuộc khởi nghĩa của Hai Bà Trưng là cuộc khởi
nghĩa đầu tiên của người Việt chống lại chế độ đô hộ của người
Tầu, giành độc lập cho dân tộc.
Cuộc khởi nghĩa này thường được coi như biểu dương cho tinh thần
bất khuất của dân tộc ta trước sự tràn lấn thường trực và vô cùng
mãnh liệt của Hán Tộc và khả năng lãnh đạo của người phụ nữ trong
xã hội Việt Nam thời cổ. Một mặt
khác, như trên đã trình bày, đó không phải là một cuộc nổi dậy nhỏ,
giới hạn trong một địa phương mà là một cuộc khởi nghĩa có quy mô
rộng lớn bao trùm tất cả các quận thuộc Giao Chỉ Bộ từ Hợp Phố
trở xuống. Nó đã làm rung động
Triều Đình Nhà Hán. Những cố gắng
phản công của triều đình này đã chỉ xảy ra sau hai năm dài sửa soạn
và cuộc tái xâm lược mặc dầu được đặt dưới sự chỉ huy của vị lão
tướng nổi danh nhất đương thời, đã không được thực hiện một cách mau
chóng.
Về
hậu quả, mặc dầu không hoàn toàn thành công, cuộc khởi nghĩa của Hai
Bà đã thức tỉnh tinh thần dân tộc của người Việt sau ngót một trăm
năm mươi năm sống an phận dưới sự thống trị của người Tầu và trước
đó của Nhà Triệu. Sự thương tiếc
và tôn kính của người Việt đối với Hai Bà đã được biểu lộ trong
việc lập đền thờ Hai Bà hay âm thầm trong đáy lòng của mỗi người đã
trở thành một sự nhắc nhở thường trực về sự khác biệt giữa hai
chủng tộc cũng như về khả năng đấu tranh của người Việt. Nó đã ảnh hưởng rất lớn lao tới các
cố gắng khởi nghĩa của dân ta về sau này. Cuối cùng là chủ trương và nỗ lực cải
tổ của Mã Viện trong tổ chức cai trị ở ba quận Giao Chỉ, Cửu Chân
và Nhật Nam. Những cải tổ này đã
đưa tới sự kiểm soát các sinh hoạt của người bản xứ một cách trực
tiếp, chặt chẽ hơn và đã làm cho văn hóa của người Tầu được truyền
bá sâu rộng hơn trong quần chúng Giao Chỉ. Vai trò của giới quý tộc thời xưa không còn nữa. Chế độ có thể gọi là bảo hộ giống
như các chế độ của người Tây Phương ở các thuộc địa của họ sau này
đã hoàn toàn bị thay thế. Các quan
lại người Tầu trong chiều hướng này đã mặc tình thao túng với sự
ủng hộ nhiệt tình của các di dân của họ. Tình trạng này đã được
phản ảnh một phần nào qua nhận xét của Lê Ngô Cát và Phạm Đình
Toái trong Đại Nam Quốc Sử Diễn Ca
khi hai tác giả này viết:
Trưng Vương vắng
mặt còn ai,
Đi về thay đổi mặc người Hán quan.
Lịch
sử dân tộc Việt Nam từ sau năm 43 đã rẽ sang một hướng khác hẳn trước. Đây mới là
điểm thực sự quan trọng của cuộc khởi nghĩa của Hai Bà Trưng. Nó cũng nói lên tham vọng và chủ trương
thâm độc cố hữu của người Tầu đối với dân tộc Việt Nam, dân tộc ngay
từ đầu đã đóng vai trò nút chặn, ngăn cản con đường Nam tiến của họ
xuống các vùng Đông Nam Á, Úc Châu và Ấn Độ Dương, một vị trí địa
lý chiến lược vô cùng quan trọng trong bất cứ thời đại nào.
Hậu
thế đã có những nhận xét gì về Hai Bà Trưng
Trước hết là các sử gia:Các sử gia Việt Nam ngay từ những ngày đầu cho
tới Thế Kỷ 19,
kể cả Vua Tự Đức, người đã ra lệnh soạn thảo bộ Khâm Định Việt Sử Thông Giám Cương Mục của Quốc Sử Quán
Triều Nguyễn, và sau này là
Trần Trọng Kim, tác giả Việt Nam
Sử Lược, bộ sử gối đầu giường, đã được dủng làm sách giáo khoa
cho nhiều thế hệ hiện đại, đã dành cho Hai Bà Trưng những cảm tình
đặc biệt, nếu không nói là những lời tán dương đẹp đẽ nhất mà
người cầm bút có thể viết được.
Phan Bội Châu lại còn đi xa hơn nữa.
Tác giả của Việt
Nam
Vong
Quốc Sử và Việt Nam Quốc Sử Khảo đã đề nghị suy tôn Hai Bà Trưng làm tổ nước ta. Ông lý luận như sau:
Nước
ta từ Trưng
Nữ Vương về trước, bảo rằng không có người e rằng cũng là đúng sự thật lắm. Thế
mà thình lình có một người con gái ở huyện mê linh đột nhiên xoang tay rán cánh đuổi quân Tàu làm tiên
phong độ quân độc lập ở nước ta, mà sửnước ta mới bắt đầu có ba chữ tên họ Trưng nữ vương là người nước
ta, chẳng những làm vẻ vang cho nước
ta mà thôi, mà cả đến nước tàu thời đông hán kỷ cũng có mấy chữ
viết
to là GIAO CHỈ NỮ TỬ TRƯNG
TRẮC mà ở tỉnh Quảng Tây, phủ Thái Bình nước Tàu cũng có một cái miếu thờ có ba chữ biển đề rằng Trưng Vương Miếu.
Chứng
cớ như thế thời bảo
bà trưng là người sinh đẻ ra người nước nam ta ai
lại không thừa nhận được? Sử học
ngày nay theo khoa học mà cùng tới, không thể bằng theo thuyết thần bí huyễn hoặc mà cần phải
căn cứ vào sự thực. Vậy căn cứ
vào sự thực trên lịch sử thì
tôi nhất định nhận bà Trưng nữ Vương là thủy tổ. Các nhà sử học trong nước nghĩ sao? [7]
Người Tầu cũng vậy.
Mặc dầu coi Hai Bà là làm phản, Hậu Hán Thư đã dùng ba chữ
“thậm hùng dũng”(rất hùng dũng) để diễn tả khí thế của Hai Bà.
Sau đây là những đoạn trích trong các sách sử khác của người
Việt.
Trước
hết là nhận xét của Lê Văn Hưu, tác giả của bộ chánh sử đầu tiên
của người Việt đời Trần Thái Tông.
Lê Văn Hưu đã viết về Hai Bà Trưng như sau:
Trưng
Trắc, Trưng nhị là đàn bà, hô một tiếng mà các quận Cửu Chân, Nhật
Nam, Hợp Phố và 65 thành ở Lĩnh Ngoại đều
hưởng ứng; việc dựng nước, xưng vương dễ như trở bàn tay, đủ biết là hình thế đất Việt ta có thể
dựng cơ nghiệp bá vương. Tiếc rằng sau họ Triệu cho đến trước họ Ngô, trong
khoảng hơn nghìn năm, bọn đàn ông chỉ cúi đầu bó tay, làm thần bộc cho người phương
Bắc, há chẳng xấu hổ với hai chị
em họ Trưng là đàn bà ư? Ôi! Có thể gọi là tự bỏ mình vậy[8].
Tiếp theo là nhận xét của Ngô Sĩ Liên:
Họ
Trưng giận thái thú nhà Hán bạo ngược, vung tay hô một tiếng mà quốc thống nước ta xuýt được khôi phục; khí
khái anh hùng không những là lúc sống dựng nước xưng vương mà sau khi chết có thể
chống ngăn tai hoạ; phàm gặp những việc tai ương hạn lụt, đều cầu đảo không việc gì là không
ứng.
Cả
bà Trưng em cũng thế. Vì là đàn
bà mà có đức hạnh kẻ sĩ, các khí hùng dũng trong khoảng trời đất
không phải vì thần chết mà kém đi.
Bọn trượng phu chẳng nên nuốt
lấy cái khí phách cương trực chính
đại ư? [9]
và
của một sử thần khác:
Giao
Chỉ, Cửu Chân, Nhật Nam là đất nước Thục, không giữ được mà mất về
họ Triệu, không giữ được mà bị nhà Hán thôn tính. Bà Trưng là một người con gái góa ở Giao Chỉ, không có một thước đất,
một người dân, chỉ vì báo thù chồng mà khởi binh đánh một trận, cả sáu quận đều theo, định
được 65 thành
dễ như lấy đồ trong túi, làm cho
bọn quan lại, thú úy cai trị
trong thời gian 150
năm, phải bó tay không dám làm gì. Than ôi!
Cái khí anh linh của trời
đất, không chung
đúc vào người con trai, mà lại chung đúc vào người con gái, nếu phải có lòng trời tựa Lạc Việt, thì
có thể lấy cả được Kinh, Dương, đâu lại
chỉ có đất Ngũ Lĩnh mà thôi. [10]
Ngọ Phong Ngô thời Sỹ còn dẫn một đoạn khác trong
sách Thông Luận như sau: Không có gì khó
thu phục được là nhân tâm, không có gì khó nắm giữ được là quốc thể; lại còn khó nữa là một người đàn
bà mà tập họp được cả nhân dân trai tráng làm đồng chí.
Nước ta bị nội thuộc đã lâu, phục tùng pháp chế cho là quen,
bị bọn tướng lại thống trị cho là
việc thường ngày, huống chi đương
lúc nhà Hán trung hưng, thu phục nhiều tay trí dũng, ai dám chống cùng oai hổ. Trưng vương là đàn bà góa, búi tóc
đứng lên, những con trai
trong nước đều cúi đầu chịu. Bà
chỉ huy, các quan to ở năm mươi thành cũng đều nín hơi, không dám kháng cự. Lưu Văn Thúc là người diệt được quần
hùng, chống nổi đại địch, mà
khi tập binh khiển tướng còn phải ăn trưa ngủ muộn, lo nghĩ cơ mưu; Mã
Phục Ba làm cỏ nước Tiên Linh,
phá tan nước Tham Lang, mà khi đóng quân ở Lãng Bạc, cũng phải lo xa nghĩ kỹ, náu hình ở
bên hồ sâu. Tiếng tăm hùng dũng của Bà chấn động cả Trung Hoa, cơ nghiệp mở mang của
Bà ngang trong trời đất, thật là anh hùng.
Trong những sách Bắc Sử
về về đời Hán, Đường cũng có vua đàn bà, như họ Lã, họ Vũ, nhưng
đều là nhờ thế đã làm mẫu hậu rồi, mà nắm lấy quyền nhân chủ,
thì dễ lung lạc được trong nước,
múa may với đàn trẻ. Đến như Bà
Trưng là một người đàn bà thường mà
khởi lên được thì khó lắm. Xem
trong Nam Sử thì nội thuộc Lương và Trần, có ông Lý Nam Đế, Triệu Việt Vương, sẵn là cường
hào, hay là gia thế, lòng người đã sẵn quy phục, thế nước đã hơi xu hướng mà khởi lên còn
có phần dễ; đến như Bà Trưnglà con gái thì lại khó lắm. Tuy thế
cũng chưa lấy gi làm kỳ cho lắm.
Vợ trả thù chồng, em giúp việc chị, một là tiết phụ, một là nghĩa nữ, vào cả một
nhà, thế mới là kỳ. Ông vua bị mất nước, hoặc là bị bắt, hoặc là đầu hàng, con gái ở cảnh nhà
tan, hoặc phải bỏ đi, hoặc bị tủi nhục.
Bà chị mất nước, bà em cũng
tuẫn tiết theo chị, không chịu đầu hàng cũng
khôngđểbị bắt, người chồng ở
dưới đất được nhắm mắt, kẻ gian tà trông thấy thế phải cúi đầu. Vua tôi Văn
Thúc (tướng Hán) không làm gì nổi.
Chết rồi mà tiếng thơm vẫn còn.
Thế mới càng kỳ
nữa. Than ôi! Hồng nhan trẻ đẹp xưa nay chôn
vùi đã bao người. Nhưng Nữ Oa có việc động trời đến giờ, chỉ có hai
chị em Bà Trưng nữa đấy thôi. Còn
bà Triệu thì chưa đáng kể. [11]
Vua
Tự Đức cũng có nhận xét tương tự trong phần Ngự
Phêcủa bộ Cương Mục:
Hai Bà Trưng
thuộc phái quần thoa, thế mà hăng hái quyết tâm khởi nghĩa, làm chấn động cả triều đình Hán. Dầu rằng thế lực cô đơn, không gặp thời
thế, nhưng cũng làm phấn
khởi lòng người, lưu danh sử sách.
Kì những bọn nam tử râu mày mà chịu khép nép làm tôi tớ người khác. Chẳngcũng mặt dày thẹn chết lắm du! [12]
Sau hết là Trần Trọng Kim, tác giả của Việt Nam Sử Lược:
Hai bà họ Trưng
làm vua được 3 năm, nhưng lấy
cái tài trí người đàn bà mà dấy được nghĩa lớn
như thế khiến cho vua tôi nhà Hán phải lo sợ, ấy cũng là đủ để cái
tiếng thơm về muôn đời. Đến ngày
nay có nhiều nơi lập đền thờ hai bà để ghi tạc cái danh tiếng hai
người nữ anh hùng nước Việt Nam ta. [13]
Lệ Thần Trần Trọng Kim, Việt Nam Sử Lược. Saigon, Tân Việt, in lần thứ không
đề năm, tr. 48.
Trong văn học: Trong văn học không một người Việt Nam nào trước
đây không có dịp đọc hay học thuộc lòng hay được nghe người khác học
hay ru em bài “Bà Trưng Quê Ở Châu Phong”, trích trong Đại Nam Quốc Sử Diễn Ca của Lê Ngô Cát và Phạm Đình Toái
và một số những bài thơ khác của hai tác giả này. Những tác phẩm này phần lớn xuất hiện
hồi đầu Thế Kỷ 20 do nhu cầu vận dụng quần chúng của các nhà cách
mạng, ái quốc đương thời và được thực hiện dưới nhiều hình thức
khác nhau. Về tuồng ta có Thù Chồng Nợ Nước của Hoàng Tăng
Bí; về văn tế ta có Bà Trưng Tế
Chồng của Á Nam Trần Tuấn Khải; về văn suôi, ta có bài Ai Là Tổ Nước Ta?Người Nước Ta Với Sử
NướcTa của Phan Bội Châu đã dẫn trên đây; về thơ, người viết chỉ
giới thiệu một số bài tiêu biểu đã có dịp được học như những bài
học thuộc lòng hồi còn nhỏ, được nghe các bà mẹ, các bà chị hát
ru, được học thuộc lòng từ thuở ấu thơ, được đọc trong các sách và
gần đây được thấy trên các trang mạng.
Tất cả đều gợi lên trong lòng người nghe, người đọc một niềm
hãnh diện lớn lao về quá khứ oai hùng của dân tộc Việt Nam, kèm theo
những tình cảm đau xót, ngậm ngùi, tiếc thương, oán hận, nhưng không
hoàn toàn tuyệt vọng. Trái lại
với bốn câu mở đầu cho bài Đề Vịnh
Trưng Vương của Hoàng Thúc Hội làm năm 1932, vào lúc thịnh thời của chế độ đô hộ của người Pháp: Thời nào
cũng có hào kiệt của thời ấy, chỉ là đã qua hay chưa tới mà
thôi. Thời hai Bà Trưng, Thánh Gióng
đã về Trời, Bà Triệu chưa nổi dậy, nhưng rồi Hai Bà đã xuất hiện
để “Nẩy chồi hoa nụ Lạc, Mở mặt nước non Hồng”:
Ngựa Gióng đã lên
không
Rừng
Thanh voi chửa lồng.
Nẩy
chồi hoa nụ Lạc
Mở
mặt nước non Hồng.
Trước nhất vàquen
thuộc nhất là bài của Lê Ngô Cát và Phạm Đình
Toái, trích trong Đại Nam Quốc Sử Diễn Camà ngươi ta quen gọi là bài Bà Trưng Quê ở Châu phong:
Bà Trưng quê ở châu Phong,
Giận
người
tham bạo, thù chồng chẳng quên.
Chị
em nặng một lời nguyền,
Phất
cờ nương tử, thay quyền tướng quân.
Ngàn
tây nổi áng phong trần,
Ầm
ầm binh mã tới
gần Long Biên.
Hồng
quần nhẹ bước chinh yên,
Đuổi
ngay Tô Định, dẹp yên biên thành.
Đô
kỳ đóng cõi Mê Linh,
Lĩnh
Nam riêng một triều đình nước ta.
Ba
thu gánh vác sơn hà,
Một
là báo phục, hai là bá vương.
Uy danh động đến Bắc
phương,
Hán
sai Mã Viện lên đường tiến công.
Hồ
Tây đua sức vẫy vùng,
Nữ
nhi chống với
anh hùng được nao.
Cấm
Khê đến lúc hiểm nghèo,
Chị
em thất thế phải
liều với song.
Phục
Ba mới dựng cột đồng,
Ải
quan truyền thấu
biên công cõi ngoài.
Trưng
Vương vắng mặt còn ai,
Đi
về thay đổi mặc người Hán quan.
Đại Nam
Quốc Sử Diễn Ca
Bài của Dương Bá Trạc(1884 – 1944):
Nước nhà gặp cơn bĩ,
Trách nhiệm gái trai chung.
Quyết lo đền nợ
nước
Há những vị thù
chồng?
Tham
tàn căm tướng Chệt,
Tai
mắt tủi nòi Hồng.
Em ơi! Đứng cùng chị.
Thù riêng mà
nghĩa công
Tham tàn căm
tướng Chệt,
Tai mắt tủi nòi
Hồng.
Em ơi! Đứng cùng chị.
Thù riêng mà
nghĩa công.
Xin
đem phận bồ liễu,
Đành liều với
núi sông.
Một trận đuổi Tô
Định.
Quân Tầu đuôi
chạy cong.
Lĩnh Nam bảy mươi
quận,
Mặc sức ta vẫy
vùng.
Mê Linh xưng
nghiệp đế,
Độc lập nêu cờ
hồng.
Bốn
năm nước tự chủ;
Nhi
nữ cũng anh hùng.
Dương
Bá Trạc
Cột đồng chìm chín suối,
Bia
đá rọi ngàn thu.
Vì
nước thương người khuất,
Xúm
tay chỉ đứa thù.
Non
sông tươi nét mặt,
Hào
kiệt hổ chòm râu.
Ai
biết, ai không biết,
Hồ
Tây nước thẳm sâu.
Đoàn
Văn Bá
Bài của Nguyễn Ngô Đoan (1851 – 1945):
Trăm năm trong cõi người ta,
Khí
thiêng chung đúc một nhà lạ thay,
Kìa
xem Sử Việt xưa nay,
Thoa
quần mà cũng có ngày đế vương.
Giai
nhân nan tái đắc.
Trong
danh hoàn dễ được mấy Trưng Vương?
Hội
phong trần sinh ở xứ Đông Dương,
Vững
gan sắt lấy cương thường làm trọng.
Quốc
sỉ phu thù thiên bất cộng,
Tỷ
trinh muội liệt thế vô vong.
Đem
phấn son thay lấy việc anh hùng,
Lưỡi
kiếm chẳng dong phường cẩu tặc.
Đuổi
Tô Định thẳng về đất Bắc,
Rửa
tanh hôi mà gánh lấy non sông.
Làm
gương cho khách hồng quần.
Nguyễn
Ngô Đoan
Vịnh Phục
Ba
Trèo non, vượt
bể biết bao công,
Một
chút Hồ Tây chút vẫy vùng.
Quắc
thước khoe chi mình tóc trắng,
Cân
đai đọ với khách quần hồng.
Gièm
chê đã chán đẩy mâm ngọc,
Khen
chê đã chán mấy cột đồng.
Ai
muốn chép công ta chép oán.
Công
riêng ai đó, oán ta chung.
Đoàn
Như Khuê
Vịnh Trưng Vương
Tượng đá Trời Nam giãi tuyết sương
Ngàn năm
công đức nhớ Trưng Vương
Tham tàn
trách bởi quân gây biến
Oanh liệt
khen cho gái dị thường
Liều với non
sông hai má phấn
Giành nhau
nòi giống một da vàng
Cột đồng
Đông Hán tìm đâu thấy
Chỉ thấy Tây
Hồ bóng nước gương.
Thái
Xuyên Hoàng Cao Khải
Tiếp
theo là Hoàng Thúc Hội (1870
-1938)
với bài Đề Vịnh Trưng Vương. Bài này được giải thưởng năm 1932 và được khắc vào bia Đền Thờ Hai Bà. Khác với những bài
trước, bài này ý và lời không mang tính cách hoài niệm, u buồn, thở
than, ngậm
ngùi, trách móc mà hào hùng hơn khi hướng về quá khứ với hai hình ảnh biểu trưng là Thánh
Gióng tức Phù Đổng Thiên Vương,Bà Triệu và tích cực hơn
khi hướng về tương lai, dù không trực tiếp mà chỉ là nói mé:
Đề Vịnh Trưng Vương
Ngựa
Gióng đã lên không
Rừng
Thanh voi chửa lồng
Nẩy
chồi hoa nụ Lạc
Mở
mặt nước non Hồng
Trăng
rọi gương hồ Bạc
Mây
tan dấu cột đồng
Nén
hương lòng cố quốc
Xin
nhắn một lời chung.
Hoàng
Thúc Hội
Riêng về câu đối,
trước đó, về thời Nhà Lê, dưới thời Lê Thần Tông,
người ta có truyền tụng đôi câu sau đây của Giang Văn Minh làm khi đi sứ sang Nhà Thanh năm Mậu Thìn, 1628, nói về cột đồng:
Đồng trụ chí kim đài dĩ lục
(Cột đồng đến nay rêu đã xanh)
Đằng Giang tự cổ huyết do hồng
(Sông
Bạch Đằng từ xưa máu còn đỏ)
được ghi trong Đại
Việt Lịch Triều Đăng Khoa Lục với đề tài do phía Nhà Thanh đề
ra. Sau đó, theo lời truyền, ông bị
Nhà Thanh giết, tẩm xác vào thủy ngân, rồi cho đưa về nước.
Trong
âm nhạc: Không kể cổ nhạc với những vở chèo,
tuồng, cải lương, trong tân nhạc người ta cũng thấy có nhiều bài nói
tới Hai Bà Trưng haylấy Hai Bà Trưng làm đề tài, điển hình là bài Trưng Nữ Vương của Nhạc Sĩ Thẩm Oánh
vô cùng quen thuộc với các nữ học sinh Việt Namtrong vùng Quốc Gia, thời Quốc Trưởng Bảo
Đại trước năm 1954 và
ở miền Nam trước năm 1975,rồi
sau này ở Hải Ngoại, với lời ca vô cùng trang nghiêm, kính cẩn và
mang nặng tinh thần hoài niệm như sau:
Trưng Nữ-Vương lau phấn son mưu thù nhà,
Mài gươm vang khúc toàn thắng hùng ca,
Thu về giang-san cho lừnguy gái Nam,
Bầu Trời Á sáng ngời ánh quang.
Nợ nước phó tay người nhi-nữ,
Tình riêng cứu nguy cho toàn-dân,
Một lòng trung-trinh sonsắt bên Hát Giang sóng rền.
Trưng NữVương dày đức cao ơn,
Xin ứnglinh ban phúc cho giangsan hoàbình.
Trưng NữVương, nướcnon còn đó,
Giống LạcHồng quyết kiênlòng bồiđền nonsông.
Hồn quốc gia mờ phai máđào,
Nhà Việt lặng buồn, rầurĩ, sầuđau,
Xui lòng nhinữ mau phục thù,
MêLinh ngợp trời cờ Việt sóng xô.
Mang phấnson tô màu sơnhà,
Lòng vì nước, vì nhà.
Cho Việt Nam muôn đời hungcường,
Nhờ ơn-đức TrưngVương.
Trưng NữVương lau phấn son mưu thù nhà,
Mài gươm vang khúc toàn thắng hùng ca,
Thu về giang san cho lừnguy gái Nam,
Bầu Trời Á sáng ngời ánh quang.
Nợ nước phó tay người nhinữ,
Tình riêng cứu nguy cho toàndân,
Một lòng trungtrinh sonsắt bên Hát Giang sóng rền.
Trưng NữVương dày đức cao ơn,
Xin ứnglinh ban phúc cho giangsan hoàbình.
Trưng NữVương, nướcnon còn đó,
Giống LạcHồng quyết kiênlòng bồi đền non sông.
Hùng Lân (1922 – 1986) trong Cô Gái Việt cũng có hai câu:
Triệu Trưng xưa đẹp gương sáng muôn đờ!
Dòng máu thiêng còn đượm
nồng trong trái tim.
Văn Giảng (1924 – 2013) cũng viết Đêm Mê Linh:
ĐÊM MÊ LINH
Canh dài ta ngồi trong rừng cây vang âm hồn thiên thu
Trời vắng hồn lắng tiếng sơn hà trong gió hú:
"Ai thấy chăng xưa hùng cường?
Ai thấy chăng nay xiềng cùm
Đằng đằng nặng hận thù
Ai đắp non sông trường tồn?
Ai kết lên dân tài hùng
Xua tan giặc Đông Hán
Xua tan giặc xâm lấn?"
Ta cùng chung lòng mong ngày vang danh thơm dòng oai linh
Thề quyết rèn chí quét quân thù đang cướp nước
Ta cháu con dân Việt hùng
Nơi Mê Linh ta trùng phùng
Đồng lòng nguyền vẫy vùng
Ta chiến binh đang thề nguyền
Quanh ách thiên nung lòng bền
Gian nguy càng hăng chí
Xung phong chờ đến ngày
Ai vì nước?
Ai thề ước?
Ta xung phong nguyền dâng thân hiên ngang
Nguyện đấu tranh xua tan quân Đông Hán
Ai trung thành?
Ai liều mình?
Thề hy sinh, thề tung hoành hiên ngang
Thề kiên trung chiến đấu, thế chiến thắng!
Canh dài ta ngồi mơ ngày đi xông pha giành non sông
Ngời chói bừng ánh sáng tươi hồng hăng chí nóng
Quanh ánh thiêng reo bùng bùng
Ta nắm tay ca trầm hùng
Hẹn ngày rạng Lạc Hồng
Mơ xuất quân đi rập ràng
Mơ quét tan quân bạo tàn
Xua tan giặc Đông Hán
Xua tan giặc xâmlấn
và chắc chắn còn nhiều hơn nữa, đặc biệt là câu đối và văn
tế. Người viết xin để quý vị độc
giả tùy nghi tìm kiếm thêm cho đầy đủ hơn.
Để kết luận, ta có
thể nói rằng chủ trương xâm lấn và tiêu diệt dân Việt là một chủ trương ngàn năm, cố
hữu của người Tầu. Người Tầu đã
có chủ trương này từ ngót hai ngàn năm trước ngay sau khi Mã Viện
đánh bại Hai Bà Trưng. Sự thay đổi
chính sách và cuộc cải tổ guồng máy cai trị, điển hình là
chuyệnhọ Mã dựng cột đồng và nguyền rủa dân Giao Chỉ “Đồng trụ
chiết, Giao Chỉ diệt”là những bằng chứng cụ thể không thể chối
cãi được.
Một ngàn chín trăm bảy
mươi sáu năm đã trôi qua. Chỉ còn
bốn năm nữa là đủ hai ngàn năm.
Nước Việt Nam và dân tộc Việt Nam vẫn hiên ngang tồn tại và
hàng năm vẫn làm lễ tưởng niệm Hai Bà Trưng ở khắp nơi ở trong nước
cũng như ở Hải Ngoại trong khi cột đồng của họ Mã ngay từ sau
khi xuất hiện đã bị người dân ném
đá chôn vùi để rồi “chìm chín suối”, không còn “tìm đâu thấy” dấu
vết,còn danh thơm của Hai Bà thì “Bia đá rọi nghìn thu” đúng như hai
câu thơ của Nhà Nho Đặng Văn Bá được trích dẫn trong phần đầu của bài viết này:
Cột đồng
chìm chín suối,
Bia
đá rọi nghìn thu.
Khi bài này
được viết thì mối đe dọa của người Tầu và hiểm họa mất nước, kể
cả diệt chủng đã lại tái xuất hiện.
Lần này cực kỳ nguy hiểm, tinh vi và độc địa hơn nhiều. Nóxảy ra giữa hai nước Cộng Sản anh em
“môi hở răng lạnh”, “bốn tốt, mười sáu chữ vàng”. Có điều là hiểm họakhông phải chỉ xảy ra ở Biển Đông mà ngay trên đất liền.
Những gì xảy ra ở Biển Đông chỉ là diện, trên đất liền mới là điểm. Hiểm họa lần này đã xảy ra một cách
âm thầm, nhẹ nhàng, tiệm tiến, phi võ lựcvà dochính những người
Việt tự nhận là “đỉnh cao trí tuệ” tự tạo ra và tự chấp nhận. Nó đã và đang xảy ra trong tất cả mọi
sinh hoạt từ chính trị, kinh tế đến văn hóa, xã hội... và đã được
rất nhiều người thuộc đủ mọi giới trong cũng như ngoài nước lên
tiếng cảnh cáo. Người viết thấy
không cần viết thêm ở đây.
Phạm Cao Dương
QuậnCam, California, Kỷ NiệmHai Bà Trưng năm thứ 1976,
XuânKỷ Hợi (2019).
[1]Bùi
quang Tung, “Cuộc Khởi Nghĩa Hai Bà Trưng Dưới Mắt Sử Gia”,
trong Đại Học, Tạp chí nghiên
cứu Viện Đại Học Huế, số 10, tháng 7 năm 1959, tr. 1 – 16. H. Maspéro,
“L’Éxpédition de Ma Yuan”, in BEFEO, XVIII, No, 3, pp. 11 -28.
[3]
Theo Đông Quan Hán Ký, Mã Viện
sau khi bình được xứ Giao Chỉ đã dâng sớ lên Vua Hán nói
rằng “Thái Thú Tô Định mở mắt lớn
khi thấy tiền, nhắm mắt lại trong việc dẹp giặc, lại sợ ra trận”.,
dẫn bởi Bùi Quang Tung, -nt-.
[6]Thành
này hình tròn như cái kén nên được gọi như vậy. Ngoài thành Kiển Giang, theo Đại Nam Nhất Thống chí, Mã Viện
còn cho đắp thêm một thành nữa ở Vọng Hải.
[8]Đại Việt Sử ký Toàn Thư, Ngô Đức
Thọ dịch và chú thích. Hà Nội,
Nhà Xuất Bản Khoa Học Xã hội, 1993,
Kỷ Trưng Nữ Vương, tr. 156-157.
[10]Ngọ
Phong Ngô thời Sỹ, Việt Sử Tiêu Án, Từ Hồng Bàng) đến Ngoại Thuộc Nhà Minh. Bản dịch
của Hội Liên Lạc Văn Hóa Á Châu.
Saigon, Văn Hóa Á Châu, 1960,
tr. 40-41.
[12]Quốc Sử
Quán Triều Nguyễn Khâm Định Việt Sử
Thông Giám Cương Mục, Tập Một, Tiền biên, Quyển Thứ II, tr. 116.
[13]Trần
Trọng Kim, Việt Nam Sử Lược. Saigon,
Tân Việt, in lần
thứ bảy, 1964;
Saigon, Trung Tâm Học Liệu xuất bản
lần thứ nhất, 1971; Đại Nam,
California, tái bản ở Hải Ngoại, không đề năm, tr. 48.
No comments:
Post a Comment