ĐỐI ĐẦU
HOA KỲ - TRUNG CỘNG
(Photo source: Wikipedia tiếng Việt)
Tác giả: Trần Gia Phụng
Cộng Hòa
Nhân Dân Trung Hoa tức Trung Cộng trở thành nước cộng sản lớn và mạnh nhứt thế
giới sau khi Liên Xô sụp đổ năm 1991.Chiến tranh lạnh giữa hai khối tư bản và
cộng sản (CS) chấm dứt. Tiếp đó, một cuộc
đối đầu mới phát sinh do những tranh chấp giữa Hoa Kỳ và Trung Cộng.
1.- HOA KỲ VÀ VẤN ĐỀ ĐÀI LOAN
Phức tạp
nhứt trong bang giao giữa Hoa Kỳ và Trung Cộng là vấn đề Đài Loan
(Taiwan). Nguyên trong cuộc nội chiến
quốc-cộng sau thế chiến 2, Trung Hoa Dân Quốc (THDQ) thất bại, chạy ra Đài Loan
năm 1949. Đảng Cộng Sản chiếm lục địa Trung Hoa, lập ra Cộng Hòa Nhân Dân Trung
Hoa tức Trung Cộng.
Hoa Kỳ tiếp tục ủng hộ THDQ, nhưng vào đầu thập niên 70,
đã thay đổi sách lược.Năm 1972 tổng thống Hoa Kỳ là Richard Nixon thăm Trung
Cộng, ký kết thông cáo chung Thượng Hải với thủ tướng Trung Cộng là Châu Ân
Lai, công nhận chỉ có một nước Trung Hoa và Đài Loan là một tỉnh của Trung Cộng
Hoa Kỳ chính thức công nhận Trung Cộng ngày 1-1-1979.Dầu
vậy, sau đóHoa Kỳ ban hành "Đạo luật Quan hệ Đài Loan"(Taiwan Relations Act) ngày 10-4-1979, xác định tuy không có
ngoại giao, nhưng Hoa
Kỳ vẫn giữ mối quan hệ chính thức với Đài Loan, đãi ngộ bình đẳng như các quốc gia khác,
vẫn tiếp tục bảo vệ Đài Loan, và vẫn cung cấp võ khí có tính
cách
phòng ngự cho nhân dân Đài Loan.
Từ đó,
Hoa Kỳ không ngừng giúp đỡ, bảo vệ Đài Loan.
Mới nhứt, ngày 20-12-2019, tổng thống Donald Trump ban hành đạo luật “National
Defense Authorization Act for Fiscal Year 2020” (Luật ủy quyền quốc phòng năm 2020) đã được Thượng viện Hoa Kỳ
thông qua ngày 17-12-2019 , theo đó “Mỹ sẽ nỗ lực hỗ trợ sức mạnh quân sự của Đài Loan… kêu gọi ủng hộ những người biểu tình ủng hộ dân chủ ở Hong Kong, cũng như
yêu cầu một báo cáo về việc đối đãi người Hồi giáo Uighur thiểu số ở Tân Cương…”
Trung
Cộng phản ứng ngay.Người phát ngôn Ủy ban Đối ngoại Quốc hội Trung Cộng tố cáo
trên Tân Hoa Xã rằng “nội
dung về Đài Loan của dự luật làm suy yếu hòa bình và ổn định ở hai bờ eo biển
Đài Loan…Mưu đồ của Mỹ can thiệp vào việc nội bộ của các quốc gia khác dưới vỏ
bọc ‘dân chủ’ và ‘nhân quyền’ sẽ không bao giờ thành công. Vấn đề liên quan đến
Tân Cương không phải là vấn đề nhân quyền, dân tộc và tôn giáo, mà là vấn đề
chống khủng bố và khử cực đoan hóa.” (VOA 21-12-2019.)
Đáng chú
ý là từ sau biến cố năm 1949, nhiều người Trung Hoa không chấp nhận chủ nghĩa
CS, di tản qua Đài Loan, và qua các nước khác, nhiều nhứt là các nước Âu Châu
và Bắc Mỹ. Người Trung Hoa còn đi làm
ăn, sinh sống khắp thế giới, nên mới có thành ngữ “nơi nào có khói thì nơi đó có người Hoa”.
Tâm tư
của tất cả những người tha hương trên thế giới đều luôn luôn hướng về tổ quốc
thân yêu. Đông tây kim cổ, ai tha hương
cũng nhớ cố hương. Đối với hậu duệ người
Hoadi tản ra hải ngoạisau khi lục địa Trung Hoa rơi vào tay CS từ năm 1949,
Trung Hoa Dân Quốc ở Đài Loantrở thanh biểu tượng cho tổ quốc của những người
Hoa yêu tự do dân chủ. Nếu Đài Loan cũng
lọt vào tay CS, thì người Hoa trên toàn thế giới, kể cả hậu duệ những người Hoa
ra đi năm 1949, sẽ quy hướng về tổ quốc Trung Hoa mà thủ đô là Bắc Kinh do CS
cai trị. Điều nầy sẽ rất nguy hiểm cho
Hoa Kỳ và các nước trên toàn cầu.
Đó là lý
do sâu xa khiến Trung Cộng muốn chiếm lại Đài Loan, không phải chỉ vì Đài Loan
càng ngày càng phát triển và trở thành một trung tâm kinh tế, thương mãi, kỹ
nghệ mạnh mẽ trên thế giới, mà còn thống nhất lãnh thổ, và hy vọng thống nhứt
cả tinh thần và tâm linh của người Trung Hoa.
Ngược lại, đó cũng là lý do sâu xa Hoa Kỳ cần bảo vệ Trung Hoa Dân Quốc
ở Đài Loan, nhằm duy trì mái ấm tổ quốc, hồn thiêng sông núi của người Hoa yêu
chuộng dân chủ tự do khắp thế giới, chống lại Trung Cộng.
Một điểm
quan trọng cần chú ý là lớp người Quốc Dân Đảng gốc Hán từ đại lục qua Đài Loan
năm 1949, thì ngày nay, tức 70 năm sau, hoặc già nua, hoặc không còn nữa. Lớp hậu duệ của những người Quốc Dân Đảng
(gốc Hán) nầy, vì khát vọng tự do dân chủ và vì quyền lợi địa phương, sẵn sàng
kết hợp với người Min Yueh (Mân Việt), khối dân đông đảo chủ yếu ở Đài Loan,
tranh đấu cho quyền lợi địa phương.
Người Mân
Việt ở Đài Loan là hậu duệ nhóm Mân Việt ở Phúc Kiến (Fujian), phía đông nam
lục địa Trung Hoa, trong khối Bách Việt còn lưu truyền, đã qua Đài Loan nhiều
nhứt vàothế kỷ 17, thời Trịnh Thành Công (1624-1662) chống nhà Thanh. Từ đó,
người Mân Việt càng ngày càng đông và dân trí càng cao.Năm 1988, chủ tịch Quốc
Dân Đảng là Lý Đăng Huy, gốc người Mân Việt, trở thành tổng thống Đài Loan.Ông
bí mật hỗ trợ phong trào Đài Loan độc lâp.
Phong trào nầy phát triển mạnh thời tổng thống kế tiếp năm 2000 là Trần
Thủy Biển, một người gốc Mân Việt khácthuộc đảng Dân Chủ Cấp Tiến. Bà Thái Anh Văn, tổng thống Đài Loan đương
nhiệm, cũng là một người gốc Mân Việt.
Theo cuộc
trưng cầu ý kiến của Election Study Center (ESC), thuộc National Chengchi
University (Quốc Lập Chính Trị Đại Học) ở Taipei, từ 01-01 đến
30-6-2019, trong số 7,380 người trên 20 tuổi được hỏi ý kiến, thì 56,9% tự nhận
là “người Đài Loan”,3,6 % tự nhận là “người Trung Hoa”, còn lại 36,5 % tự nhận
vừa Đài vừa Hoa, và 3% không có ý kiến. Cũng theo tài liệu nầy, người tự nhận
Đài Loan năm 2019 lần đầu gia tăng so với 4 năm qua, và tăng 5% so với năm
2018. Vị giám đốc ESC còn lưu ý là việc
gia tăng nầy trùng vào thời gian bắt đầu xảy ra cuộc biểu tình tại Hồng Kông ngày 12-6-2019. (Focus Taiwan
News Channel,Taipei, July 11,“Taiwanese
identity rises for the first time in four years: poll”.)Tỷ lệ cách biệt
giữa số tự nhận “người Đài Loan” và số tự nhận “người Trung Hoa” ở Đài Loan,
cho thấy đa số dân chúng ở đây càng ngày càng muốn độc lập và tách khỏi Trung
Cộng.
2.- TRUNG CỘNG CHỦ TRƯƠNG ĐỘC CHIẾM BIỂN ĐÔNG
Liên Xô,
các nước Hồi giáo, sa mạc, núi non, và Ấn Độ nằm về phía bắc, phía tây và tây
nam của Trung Cộng. Ở phía nam, Trung
Cộng tấn công Việt Nam năm 1979 bằng đường bộ, nhưng thất bại.Sau trận nầy,
Trung Công bắt đầu hiện đại hóa Hải quân năm 1982, nhằm tìm cách tiến ra biển
Thái Bình ở phía đông, mới có thể xuống Đông Nam Á.
Khi Hải
quân khá vững mạnh, Trung Cộng gởi công hàm lên Liên Hiệp Quốc ngày 7- 5-2009,
chính thức xác định chủ quyền đối với các quần đảo trên đường gạch nối 11 điểm
theo bản đồ do Trung Hoa Dân Quốc đưa ra năm 1948, nhưng Trung Cộng rút đường
nầy còn 9 điểm, tạo thành một khu vực có hình chữ U, giống hình lưỡi bò, rộng
khoảng 80% diện tích Biển Đông.
Biển Đông
nằm sát ngay phía nam Trung Cộng.Trung Cộng rất muốn làm chủ vùng Biển Đông,
hợp tác giao thương với các nước trong vùng, khai thác dầu khí, mở đường thông
thương vào Vịnh Thái Lan và kiểm soát con đường từ Thái Bình Dương qua eo biển
Malacca, vào Ấn Độ Dương.
Đầu năm
2013, Trung Cộng bị Philippines kiện lên Tòa án Trọng tài thường trực
(Permanent Court of Arbitration), trụ sở ở La Haye (Hòa Lan) về vấn đề lấn
chiếm bãi Scarborough của Philippines.
Tòa án nầy phán quyết năm 2016 rằng Trung Cộng không có cơ sở lịch sử và
pháp lý về đường lưỡi bò, và Trung Cộng không có quyền độc quyền làm chủ biển
và tài nguyên trong vùng lưỡi bò.
Tuy nhiên
Trung Cộng chẳng quan tâm tí nào đến phán quyết nầy, tự xem Biển Đông là “ao
nhà” của Trung Cộng, và tự cho rằng đường lưỡi bò là của Trung Công, bất chấp luật
biển của LHQ năm 1982 (UNCLOS = United Nations Convention on the Law of the
Sea).
Trong
cuộc bành trướng ở Biển Đông, Trung Cộngtheo 3 cách: 1) Chiếm và bồi đắp các
đảo để làm căn cứ. 2) Dùng sức mạnh Hải
quân và lợi thế kinh tế, o ép các nước trong vùng,nói chuyện tay đôi với từng
nước, vì như thế sẽ dễ áp lực chính trị, kinh tế, quân sự. 3)Tránh nói chuyện
đa phương với các nước cùng một lúc, tránh sự can thiệp từ bên ngoài Đông Nam
Á,nhứt là tránh sự can thiệp của Hoa Kỳ.
Đối với
Việt Nam, chế độ đã từng được Trung Cộng viện trợ trong hai cuộc chiến từ 1946
đến 1975, Trung Cộng vừa dùng tư cách đảng CS đàn anh và tư thế nước lớn, vừa
dùng kinh tế để xâm nhập, mua chuộc, thao túng, vừa dùng sức mạnh Hải quân để
đe dọa và áp lực mạnh mẽCSVN. Để đối
phó, ngày 25-11-2019, bộ Quốc phòng CSVN công bố sách trắng “bốn không”, nghĩa
là ngoài ba không cũ, nay thêm một không mới là “không sử dụng võ lực hoặc đe doạ sử dụng võ lực trong quan hệ quốc tế”. Việt Nam bị
Trung Cộng đe dọa đánh chiếm biển đảo, tức đất nước lâm nguy trong quan hệ quốc
tế, mà không dùng võ lực, không dùngquân đội để tự bảo vệ và chống ngoại xâm,
thì“quân đội nhân dân” để làm gì?
3.- HOA KỲ CHỐNG ĐỘC CHIẾM BIỂN ĐÔNG
Trước
tham vọng của Trung Cộng, Hoa Kỳ quyết định trở lui Á Châu năm
2010, và theođường lối ôn hòa, chủ trương giải quyết vấn đề bằng
chính trị. Sau đây là kết luận của bộ Quốc phòng Hoa Kỳ trong“Indo-Pacific Strategy Report” (Báo cáo chiến lược Ấn Độ-Thái Bình
Dương” (56 trang), ngày
1-6-2019, tiểu mục “Risk Reduction: Engaging China” (Để giảm bất trắc: Kết giao với Trung Quốc) (trang. 10.):
“Một trong những mục tiêu sâu rộng nhất của
Chiến lược Quốc phòng Quốc Gia [Hoa Kỳ] là
đặt quan hệ quân sự giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc trên con đường minh bạch lâu dài
và không đối địch. Theo đuổi mối quan hệ xây dựng, hiệu quả giữa hai nước chúng
ta là một phần quan trọng trong chiến lược của Hoa Kỳ tại Ấn Độ-Thái Bình
Dương.
Khi phạm vi hiện đại hóa quân đội
của Trung Quốc và mục tiêu hoạt động của quân đội Trung Quốc phát triển, nhu
cầu đối thoại chiến lược và thái độ an toàn và chuyên nghiệp cốt yếu là phù hợp
với luật lệ quốc tế. Khi Trung Quốc và
QĐNDGP Trung Quốc hoạt động một cách phù hợp với các chuẩn mực quốc tế căn bản,
nguy cơ sai sót và hiểu lầm sẽ giảm thiểu. Nhận thức được điều này, mối cam kết
quân sự song phương của chúng ta [Hoa Kỳ] với Trung
Quốc, kể cả các chuyến thăm viếng cấp cao, các chiến lược đối thoại và trao đổi
chức năng, tập trung vào việc xây dựng và tăng cường các thủ tục cần thiết để
giảm thiểu rủi ro và ngăn ngừa cũng như giải quyêt khủng hoảng.
Thông qua các cam kết của chúng ta
giữa quân đội với quân đội, Bộ Quốc phòng [Hoa Kỳ] sẽ
tiếp tục khuyến khích Trung Quốc hành xử duy trì hòa bình và ổn định trong khu
vực và điều đó hỗ trợ - hơn là phá hoại
– trật tự quốc tế dựa trên luật lệ.
Chúng ta [Hoa Kỳ] sẽ không
chấp nhận các chính sách hoặc hành động đe dọa làm suy yếu trật tự này – điều
đã mang lại lợi ích cho tất cả các quốc gia trong khu vực, kể cả Trung
Quốc. Hoa Kỳ sẵn sàng hỗ trợ Tung Quốc
chọn lựa sự phát huy lâu dài nền hòa bình và thịnh vượng cho tất cả các nước
trong vùng Ấn Độ - Thái Bình Dương, và chúng ta rộng mở sự hợp tác ở những nơi
nào chúng ta có quyền lợi. (Timothy Trần chuyển ngữ.)
Sau bộ
Quốc phòng, bộ Ngoại giao Hoa Kỳ đưa ra bản báo cáo ngày 4-11-2019 dài 32
trang, nhan đề là “A Free and Open Indo-Pacific : Advancing A Shared Vision.”,
trong đó, ở trang 05, Hoa Kỳ xác định vị trí, thế đứng của Hoa Kỳ: “The United States is and always be an
Indo-Pacific nation.” (Hoa Kỳ là và luôn luôn là một quốc gia vùng Ấn
Độ-Thái Bình Dương.)
Đối với
Trung Cộng, thái độ của Hoa Kỳ rất rõ ràng, được ghi lại ở trang 23, xin tạm
dịch như sau: “Để bảo vệ ngành hàng hải,
chúng tôi hợp tác với các thành viên vùng Ấn Độ-Thái Bình Dương nhằm duy trì tự
do lưu thông và những hoạt động hàng hải hợp lệ khác, mà tất cả các quốc gia có
thể tiếp cận và thụ hưởng tất cả những luật lệ chung về hàng hải. Trên Nam Hải, chúng tôi thúc đẩy tất cả các
bên, kể cả Trung Quốc, giải quyết tranh chấp một các ôn hòa, không áp lực, và
phù hợp với luật pháp quốc tế.
Những đòi hỏi về hàng hải của
Trung Quốc ở Nam Hải theo đường chín gạch ngang ngược, không có thực, không hợp
lệ, và phi lý. Những đòi hỏi nầy không
hợp pháp, thiếu căn cứ lịch sử hay địa lý, đưa đến những thiệt hại thực tế cho
các quốc gia khác. Nhiều lần lập lại
những hành động khiêu khích để áp đặt đường chín gạch, Bắc Kinh đang ngăn cản
các thành viên ASEAN không được khai thác 2,5 tỷ [Mỹ kim] năng lượng dự trữ, đồng thời
gây bất ổn và nguy cơ tranh chấp…”
Như thế,
hoàn toàn trái ngược với Trung Cộng, Hoa Kỳ phủ nhận đường lưỡi bò, không chấp
nhận việc Trung Cộng chiếm Biển Đông vì các lẽ: 1)Hoa Kỳ đòi hỏi Trung Cộng
phải tôn trọng chủ quyền các nước trên Biển Đông, quyền tự do lưu thông và luật
hàng hải quốc tế. 2) Hoa Kỳ không muốn
khối lượng dự trữ dầukhídưới Biển Đông lọt vào tay Trung Cộng. 3)Trung Cộng
chiếm Biển Đông là một thách thức đối với Đệ thất Hạm đội Hoa Kỳđang có mặt ở
Thái Bình Dương. 4) Biển Đông nằm trên
trục giao thôngquốc tế đông–tây và bắc-nam trên Thái Bình Dương.
Vì vậy,
Hoa Kỳ chận đứng ngay tham vọng của Trung Công tại Biển Đông.Cuộc đối đầu giữa
hai bên trở thành một hình thức chiến tranh lạnh mới, ảnh hưởng nhiều đến toàn
cầu.Chiến tranh lạnh kiểu mới nầy đưa đến chiến tranh thương mại giữa hai nước
từ năm 2018.
4.- CHIẾN TRANH THƯƠNG MẠI
Cuộc
chiến tranh thương mại giữa Hoa Kỳ và Trung Cộng bắt nguồn từ các lý do có thể
sơ lược sau đây: Thứ nhứt, sau khi Trung
Cộng cải cách và mở cửa, trong việc giao thương giữa hai nước, Hoa Kỳ bị thâm
hụt thương mại so với Trung Cộng, và thâm hụt tăng cao liên tục trong nhiều năm
từ khi Trung Cộng gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) năm 2001 cho đến
nay.
Thứ hai,
trong cuộc giao thương, Trung Cộng bị tố cáo tìm cách sao chép xâm phạm bản
quyền sở hữu trí tuệ công nghệ, trộm cắp bí mật thương mại của Hoa Kỳ và các
nước trên thế giới.
Thứ ba,
Hoa Kỳ cho rằng Trung Cộng không công bằng trong thương mại, vì các công ty
Trung Cộng tiếp cận rộng rãi thị trường nước ngoài kể cả thị trường Hoa Kỳ,
trong khi Trung Cộng lại giới hạn các công ty nước ngoài tiếp cận với thị
trường nội địa Trung Cộng. Trung Cộng
còn bắt buộc các công ty nước ngoài muốn liên doanh với Trung Cộng, thì phải
chuyển giao công nghệ và cả những bí mật thương mại cho các công ty Trung Cộng
Thứ tư,
Hoa Kỳ cáo buộc Trung Cộng thao túng tiền tệ, để cho Ngân hàng
Nhân dân Trung Hoa(People
Bank of China = PBOC) quyết định giảm giá đồng nhân dân tệ của Trung Cộng so
với Mỹ kim, nhằm làm cho hàng hóa Trung Cộng rẻ xuống đề dễ lưu thông trao đổi,
dễ tiêu thụ.
Thứ năm,
Hoa Kỳ quan ngại tham vọng của Trung Cộng sẽ vượt qua Hoa Kỳ, để trở thành nước
công nghệ tiên tiến nhứt trên thế giới, và lo ngại sẽ có ngày “Chết vào tay Trung Quốc”. (Peter Navarro
– Greg Autry, Death by China, New
Jersey: Pearso Prentice Hall, 2011.)
Để đối
phó, Hoa Kỳ quyết định tăng thuế hàng hóa nhập cảng từ Trung Cộng.Ngày
22-3-2018, tổng thống Hoa Kỳ là Donald Trump ra lệnh áp dụng mức thuế 50 tỷ Mỹ
kim trên hàng hóa của Trung Cộng. Trung Cộng liền trả đũa.Thế là cuộc CTTM bùng
phát.Mỗi lần Hoa Kỳ tăng thuế hàng Trung Cộng, hoặc áp dụng một biện pháp giới
hạn đối với hàng nhập cảng của Trung Cộng, thì Trung Cộng cũng tìm cách đáp trả
tương xứng. Hoa Kỳ đưa ra những biện
pháp hạn chế đầu tư của Trung Cộng vào những ngành quan trọng của Hoa Kỳ, theo
đó những công ty có vốn sở hữu Trung Cộng từ 25% trở
lên không được mua
lại những công ty công nghệ quan trọng của Hoa Kỳ như hàng không vũ trụ, robot, xe hơi…
Cuộc CTTM
rất căng thẳng qua nhiều hình thức khác nhau, bằng những chiêu thức khác nhau,
ảnh hưởng đến cả hai bên tranh chấp, khiến nhân dân hai nước đều thiệt
hại. Hiện nay hai nước “vừa đánh vừa
đàm”, nghĩa là vẫn tìm cách áp đảolẫn nhau, đồng thời đại diện hai nước vẫn hội
họp với nhau,tìm kiếm những giải pháp khả thi cho cả hai nước để chấm dứt cuộc
CTTM. (Cuộc CTTM hiện đang được các
chuyên viên kinh tế, thương mại trình bày rất đầy đủ chi tiết trên mạng lưới
thông tin toàn cầu.)
5.-THỰC
LỰCHAI BÊN
Trung
Cộnglà một nước độc tài CS, tuy đãcải tổ từ kinh tế chỉ huy qua kinh tế thị
trường, nhưng nền kinh tế vẫn do đảng CS kiểm soát, tư bản tập trung vào tay
nhà nước. Mục tiêu của Trung Cộng là “can thượng Mỹ Quốc, siêu quá Mỹ Quốc”
(Đuổi kịp nước Mỹ - Vượt qua nước Mỹ) (Jonathan D. T. Ward, China’s Vision of Victory, Nxb. The
Atlas Publishing and Media Company LLC, 2019, tr. 89.)
Do độc
đảng độc tài nên đảng CS toàn quyền quyết định chính sáchnội trị, quốc phòng,
ngoại giao. Dầu vậy, hiện nay Trung
Cộngcũng không ổn định, vì nhiều lẽ: 1) Sư phát triển kinh tế không đồng đều,
nhứt là giữa miền đông và miền tây, khiến nhiều người bất mãn. 2) Thành phần đòi hỏi dân chủ càng ngày càng
đông từ sau vụ Thiên An Môn năm 1989.
3) Nội bộ đảng CS chia rẽ về
chính sách, tranh chấp về quyền lực và quyền lợi. 4) Các sắc dân bị CS chiếm đóng và đàn áp,
ngược đãi như Tân Cương, Tây Tạng tiếp tục chống đối nhà cầm quyền Bắc Kinh.
Về ngoại
giao, chỉ một số nước vay nợ Trung Cộng, hoặc những nước hiện được Trung Công
ưu đãi, hối lộ, mua chuộc, mới ủng hộ chủ trương bành trướng của Trung
Cộng. Ngoài việc Trung Cộng đe dọa các
nước vùng Biển Đông và việc đối đầu với Hoa Kỳ, Trung Cộng còn dùng “quyền lực
mềm” xâm nhập vào các lãnh vực xã hội, kinh tế các nước, bành trướng khắp toàn
cầu, từ Âu Châu, qua Phi Châu, Úc Châu, Nam Mỹ.
Trung Cộng thiết lập các căn cứ Hải quân ở Sri Lanka, Djibouti, và nuôi
tham vọng xây dựng trật tự thế giới mới theo Trung Cộng, khiếnnhững nước dân
chủ, tiến bộ và phát triển chống lại chủ trương gây hấn của Trung Cộng, và quan
ngại Trung Cộng có thể xâm nhập vào nước họ.
Về phía
Hoa Kỳ, Hoa Kỳ là một nước tự do dân chủ, chống chủ nghĩa CS. Ngày 24-9-2019,
tại Đại hội đồng Liên Hiệp Quốc, tổng thống Hoa Kỳ Donald Trump lên án gay gắt
chủ nghĩa CS: “Chủ nghĩa Xã
hội và Chủ nghĩa Cộng sản không phải vì công lý, bình đẳng, không phải nâng đỡ
người nghèo, và dĩ nhiên không phải vì những điều tốt đẹp cho đất nước. Chủ
nghĩa Xã hội và Chủ nghĩa Cộng sản chỉ vì một điều duy nhất: quyền lực của giai
cấp thống trị.”
(VOA 26-9-2019)
Hoa Kỳ theo
kinh tế thị trường tự do, tư bản nằm trong tay tư nhân. Chính phủ phải tùy thuộc vào những quyết định
của quốc hội. Trong cuộc CTTM với Trung Cộng, quốc hội Hoa Kỳ đồng thuận với
chính phủ, không công nhận đường lưỡi bò của Trung Cộng, và quốc hội Hoa Kỳ
luôn luônhỗ trợ mạnh mẽ chính phủ trong việc ngăn chận sự bành trướng của Trung
Cộng. Thuận lợi hơn nữa là chủ trương
chống Trung Cộng bành trướng được dân chúng Hoa Kỳ hưởng ứng mạnh mẽ.Dân chúng
Hoa Kỳ vốn tôn trọng tự do dân chủ ở Hoa Kỳ và trên thế giới, nên chống độc tài
đảng trị bành trướng. Sách báoHoa Kỳ lên
tiếng báo động rộng rãi rất sớm nguy cơ Trung Cộng.Sự đồng thuận giữa hành
pháp, lập pháp và dân chúng Hoa Kỳ về chủ trương chống Trung Cộng là một hiện
tượng rất hiếm thấy trong một nước tự do dân chủ đa nguyên, đa sắc tộc như Hoa
Kỳ.
Hoa Kỳ và
Trung Cộng đều thủ đắc võ khí nguyên tử.Nếu chiến tranh bùng nổ, thì chắc chắn
cả hai đều thiệt hại năng. Tuy Hoa Kỳ có
phần vượt trội hơn về võ khí nguyên tử, về Hải quân với 11 hàng không mẫu hạm
so với 2 của Trung Cộng, lẫn Không quân với số lượng phi cơ gấp 3 lần Trung
Cộng, nhưng Hoa Kỳ thận trọng tự kiềm chế, không muốn gây xáo trộn hòa bình thế
giới và luôn luôn dựa trên luật lệ của Liên Hiệp Quốc để tranh đấu một cách ôn
hòa, và chỉ dùng võ lực khi thật cần thiết.
Ở Hoa Kỳ,
mỗi lần đất nước gặp hiểm nguy, thì xuất hiện một tổ chức quần chúng tự nguyện
phi chính phủ mệnh danh là “The Committee on the Present Danger” (CPD) để giúp
đất nước.Khi Hoa Kỳ ổn định bình thường trở lại, tổ chức nầy tự động giải thể
và biến mất. Lần nầy là lần thứ tư, tổ
chức nầy xuất hiệnvào ngày 25-3-2019, và vì hiểm họa Trung Cộng nên lần nầy tổ
chức đổi tên là “The Committee on the Present Danger: China”. (https://en.wikipedia.org/wiki/Committee_on_the_Present
_Danger).
Hãy nghe
tổ chức “The Committee on the Present Danger: China”tự giới thiệu:“The Committee on the Present Danger: China”
is a wholly-independent and non-partisan effort to educate and inform American
citizens and policymakers about the existential threats presented from the
Peoples Republic of China under the misrule of the Chinese Communist Party.”
(https://presentdangerchina.org/about-us/,
mục “About us”.) (Tạm dịch: “Ủy ban
về hiểm họa hiện tại: Trung Quốc” là một nỗ lực hoàn toàn độc lập không đảng
phái nhằm giáo dục và thông tin cho công dân Hoa Kỳ và giới lập pháp về những
hiểm họa của Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa dưới sự cai trị sai quấy của đảng Cộng
Sản Trung Hoa.”)
KẾT LUẬN
Sơ lược
như trên, rõ ràng các cuộc đối đầu giữa Hoa Kỳ và Trung Cộng khó dung hòa vì
mỗi bên cóchủ trương riêng, đường lối riêng, chính sách riêng, hoàn toàn đối
nghịch nhau về Đài Loan, về Biển Đông, cũng như về CTTM.Đó là chưa kể những vấn
đề khác trên thế giới.
Hiện nay,
đại diện Hoa Kỳ và Trung Cộng đang hội họp để tìm cách hạ hỏa cuộc CTTM.Dầu hai
bên có thể thỏa thuậnthương mại, nhưng chắc chắn hai bên sẽ còn đối đầu lâu
dàivề nhiều vấn đề trong tương lai.Một bên muốn nhanh chóng bành tướng để tự
khẳng định mình là trung tâm quyền lực mớihàng đầu thế giới.Một bên đang đứng
hàng đầu thế giới, luôn luôn dựa trên nền tảng công pháp, tôn trọng quyền bình
đẳng gữa các nước trong bang giao quốc tế.
Thật khó có mẫu số chung giữa hai bên và cũng khó có kết quả cuối cùng
của cuộc đối đầu nầy, vì trong khi Trung Cộng canh tân để tiến bộ, thì Hoa Kỳ
cũng canh tân để tiến bộ, mà Hoa Kỳ có thể còn tiến bộ thần kỳ hơn Trung Cộng
nữa.Kết quả giải Nobel hằng năm chứng minh rõ điều nầy.
Một điều
có thể xảy đến là nếu Trung Cộng tiếp tục cải cách, phát triển, đồng thời bành
trướng theo kiểu Đức Nhật trước thế chiến thứ hai, sẵn sàng gây hấn và dùng võ
lực áp đảo,đe dọa các nước nhỏ mà Trung Cộng dòm ngó, thì có thể sẽ có lúc xuất
hiện một liên minh quân sự mới chống lại Trung Cộng, kiểu “bát quốc liên minh”
chống nhà Thanh vào đầu thế kỷ 20 trước đây.
Lúc đó,
Trung Cộng tuy giàu mạnh nhưng phải đối phó cùng một lúc với “thù trong giặc
ngoài”.Giặc ngoàilà liên minh các nước.
Thù trong là những thành phầnđòi hỏi dân chủ chống đảng CS Trung Hoa,
những ngườibất mãn trong nội bộ đảng CS Trung Hoa, và nhứt là các sắc dân bị
Trung Cộng chiếm đóng và đàn áp nhưMãn Châu, Nội Mông, Tân Cương, Tây Tạng, Vân
Nam, đang sẵn sàng chờ đợi.Nội công ngoại kích sẽ đưa Trung Cộng về đâu?
Kinh
nghiệm Đức, Nhật trước thế chiến vẫn còn đó, sẽ rất dễ tái diễn, nhứt là tại
một vùng thường xuyên bị áp lực nạn nhân mãn như Trung Hoa, Ấn Độ, Indonesia,
Nhật Bản và cả Việt Nam nữa.Tổng cộng dân số 5 nước nầy khoảng gần 50% dân số
thế giới.Có người đã từng nói chiến tranh cũng là một giải pháp cho nạn nhân
mãn.Thực vậy chăng?
TRẦN GIA
PHỤNG
(Dallas,
25-12-2019)