[LGT: Nhà biên khảo Lịch Sử Trần Gia Phụng đang phổ biến một loạt biên khảo công phu qua những dẫn chứng giá trị coi như thêm một cống hiến trong cuộc đời góp phần truyền đạt môn Việt Sử cho giới trẻ dưới nền Giáo Dục Quốc Gia Việt Nam thời Việt Nam Cộng Hoà và gìn giữ cho đời không mai một trước nạn Cộng sản hiện nay những biên khảo có giá trị sử học. Và đây là bài biên khảo thứ nhất.] HTV
TỔNG QUÁT VỀ BIẾN CỐ TẾT MẬU THÂN (1968)
Trần Gia Phụng
1. LÝ DO CỘNG SẢN MỞ CUỘC TỔNG TẤN CÔNG
Cộng
sản Việt Nam chưa một lần lên tiếng về lý do cuộc tổng tấn công Tết Mậu
Thân. Chỉ biết quyết định “tổng công
kích và tổng khởi nghĩa” Tết Mậu Thân được đưa ra tại Hội nghị lần thứ 14 Ban
chấp Trung ương (BCHTƯ) đảng Lao Động (LĐ) khóa 3 tại Hà Nội vào tháng
1-1968. Trong phần “Phương hướng và nhiệm
vụ của ta trong thời kỳ mới” của nghị quyết nầy, đảng LĐ cho rằng cần phải tổ
chức “tổng công kích và tổng khởi nghĩa để
giành thắng lợi quyết định, đạt tới mục tiêu chiến lược mà đảng ta đã đề ra là:
a) Tiêu diệt và làm tan rã tuyệt đại bộ phận quân ngụy, đánh đổ ngụy quyền các
cấp, giành toàn bộ chính quyền về tay nhân dân. b) Tiêu diệt một phần quan trọng
sinh lực và phương tiện chiến tranh của Mỹ, làm cho quân Mỹ không thực hiện được
các nhiệm vụ chính trị và quân sự của chúng ở miền Nam. c) Trên cơ sở đó, đập
tan ý chí xâm lược của Mỹ, buộc Mỹ phải chịu thua ở miền Nam, chấm dứt mọi hành
động chiến tranh đối với miền Bắc...” (http://cpv.org.vn/cpv/. )
“Tổng
công kích" là một từ ngữ trong lý thuyết cách mạng cộng sản Trung Hoa
(Trung Cộng), có ý nghĩa là tổng tấn công.
Còn "tổng khởi nghĩa" là từ ngữ Việt Nam chỉ những cuộc nổi dậy
chống ngoại xâm trong lịch sử, và đã được Việt Minh cộng sản sử dụng để gọi cuộc
cướp chính quyền của họ vào năm 1945.
Những
mục tiêu ghi trong nghị quyết trên đây không phải là lý do đầy đủ đưa đến việc
tổng tấn công Tết Mậu Thân. Dựa trên diễn
tiến chính trị và chiến cuộc cho đến cuối năm 1967, nguyên nhân cuộc tổng tấn
công Tết Mậu Thân có thể như sau:
THAM
VỌNG CỦA PHÁI CHỦ CHIẾN Ở BẮC VIỆT NAM:
Tại Liên Xô, trong Đại hội thứ 20 của đảng CS tại Moscow từ 14 đến
25-2-1956 , Nikita Khrushchev đưa ra chính sách sống chung hòa bình giữa các nước
không cùng chế độ chính trị. Chủ trương
nầy bị Trung Cộng (TC) phản đối. Tại Bắc
Việt Nam (BVN), trong đảng LĐ xuất hiện hai khuynh hướng mâu thuẫn nhau: 1)Nhóm
bảo thủ cứng rắn theo TC, phản đối chủ trương của Khrushchev, do Lê Duẩn lãnh đạo.
2) Nhóm tán thành chủ trương của Khrushchev mà Võ Nguyên Giáp được xem là người
đứng đầu. Cuộc tranh chấp trong nội bộ đảng
âm ỷ nhiều năm thành vụ án “chống đảng”. Nhóm cứng rắn thắng thế.
Nhóm
nầy chủ trương đánh mạnh ở Nam Việt Nam (NVN), thống nhứt đất nước bằng võ lực,
nghĩ rằng nếu mở cuộc tổng tấn công thì sẽ được nhân dân NVN ủng hộ, đứng lên tổng
khởi nghĩa giành chính quyền. Nhóm cứng
rắn tin tưởng chắc chắn sẽ thắng lợi, đến nỗi in sẵn giấy bạc để thay tiền Việt
Nam Cộng Hòa (VNCH). Khi chiến dịch bắt
đầu, Lê Đức Thọ vào NVN, giữ vai trò phó bí thư Trung ương cục, phụ tá cho Phạm
Hùng, cho đến tháng 5-1968 mới trở ra Bắc vì thấy không thành công. (Huy Đức, Bên thắng cuộc, tập II: Quyền bính,
Saigon: Osin Book, 2012 (bản điện tử), tr. 100.)
PHÁ
HỦYCHÍNH QUYỀN VIỆT NAM CỘNG HÒA: Tại
NVN, ngày 1-4-1967 hiến pháp được ban hành, làm nền tảng cho sự thành lập chính
thể Đệ nhị Cộng hòa, đồng thời chấm dứt giai đoạn khủng hoảng chính trị kéo dài
trong ba năm (1964-1966). Cộng sản quyết
mở cuộc tổng tấn công vào đầu năm 1968 nhằm sớm phá hủy hệ thống chính quyền
VNCH mới được tái xây dựng, tiếp tục tạo khó khăn và gây bất ổn cho VNCH.
GÂY
DƯ LUẬN TẠI HOA KỲ: Khi Hoa Kỳ tham chiến trực tiếp tại Việt Nam, giới lãnh đạo
BVN nhận thức rõ khó có thể chiến thắng được quân đội Hoa Kỳ, vì quân đội Hoa Kỳ
trang bị võ khí tối tân và hùng hậu.
Trong khi đó, tại Hoa Kỳ phong trào phản chiến càng ngày càng lên cao,
nhứt là từ 1965 đến 1967.
Quân
đội Hoa Kỳ lúc đó gồm hai thành phần: 1) Quân nhân chuyên nghiệp, tự nguyện gia
nhập quân đội. 2) Quân nhân động viên, gồm
những thanh niên thi hành nghĩa vụ quân sự một thời gian tùy theo tình hình
giai đoạn. Gia đình những người thi hành
quân dịch tham gia mạnh mẽ phong trào phản chiến, vận động đưa thân nhân về nước,
tránh bị tai nạn chiến tranh. Luật động
viên ở Hoa Kỳ được bãi bỏ ngày 27-1-1973 (Ngày ký hiệp định Paris.)
Năm
1968 là năm bầu cử tổng thống Hoa Kỳ, dư luận dân chúng Hoa Kỳ rất nhạy cảm. Cộng sản tin rằng tổng tấn công vào các thành
phố ở NVN năm 1968, sẽ gây chấn động dân chúng Hoa Kỳ, làm gia tăng phong trào
hòa bình và phản chiến, và sẽ tạo ảnh hưởng để chính phủ Hoa Kỳ sớm rút quân khỏi
Việt Nam.
CHUẨN
BỊ HÒA ĐÀM: Cuộc vận động hòa bình do
Hoa Kỳ khởi phát từ năm 1964, càng ngày càng lan rộng. Đã đến lúc các bên đối đầu sửa soạn vào bàn hội
nghị thương thuyết nên BVN mở cuộc tổng tấn công nhằm tạo thế mạnh trước khi
vào hội nghị. (Trên thực tế, ngày 3-5-1968, Hoa Kỳ và BVN đồng ý sẽ gặp nhau tại
Paris lần đầu vào ngày 10-5-1968.) (Đoàn Thêm, 1968 Việc từng ngày, Sài Gòn: Cơ sở Phạm Quang Khai, 1968. California: Nxb. Xuân Thu tái bản, 1989, tr.
156.)
GÂY
BẤT ỔN THÀNH PHỐ: Một hiện tượng xã hội
ít được chú ý là do chiến tranh càng ngày càng khốc liệt, vùng nông thôn bất ổn,
nên mỗi năm có khoảng từ 500,000 đến 1 triệu dân nông thôn tránh bom đạn, bỏ ra
thành thị tỵ nạn, sinh sống dưới sự kiểm soát của chính phủ VNCH. (Don
Oberdorfer, Tet!, New York: Nxb. Da
Capo, 1984, tr. 53.) Lúc đó, ở nông thôn
CS không có dân để trà trộn trốn tránh, cũng không có dân để tiếp tế nuôi ăn, lại
thiếu thanh thiếu niên để bắt lính. Vì vậy,
CS đưa chiến tranh vào thành phố, làm cho dân nông thôn chạy ra thành thị quay
về nông thôn, chận đứng làn sóng di chuyển từ nông thôn ra thành thị.
KHỐNG
CHẾ MẶT TRẬN DÂN TỘC GIẢI PHÓNG: Lý do
cuối cùng thúc đẩy CS Hà Nội tổ chức cuộc tổng tấn công là: Khi mới thành lập năm 1960, Mặt trận Dân tộc
Giải phóng (MTDTGP) gồm đa số là đảng viên cộng sản miền Nam, kể cả những người
gốc miền Nam ra Bắc tập kết rồi trở về, đồng thời có cả các thành phần thiên tả,
không cộng sản, bất mãn chế độ VNCH, bỏ theo MTDTGP. Sau khi tổng thống Ngô Đình Diệm bị đảo chánh,
những thành phần miền Nam không cộng sản trong MTDTGP dự tính muốn trở về hợp
táp với tân chính phủ VNCH, nhưng chưa có cơ hội trở về vì tình hình miền Nam
xáo trộn liên tục. (Nguyễn Khánh trả lời
phỏng vấn đăng trên báo Phụ Nữ Diễn Đàn,
Hoa Kỳ, số 112 tháng 5-1993. Ngoài ra
xin xem Gareth Porter, Vietnam, A History
in Documents, New York: New American Library, 1981, tt. 292-293, in lại bản dịch tiếng Anh thư của
Huỳnh Tấn Phát gởi Nguyễn Khánh ngày 28-1-1965, do Nguyễn Khánh cung cáp.)
Giới
lãnh đạo đảng LĐ ngoài Bắc không tin tưởng các thành phần nầy và cũng không tin
tưởng những đảng viên CS gốc miền Nam trong MTDTGP. Nếu cuộc tổng tấn công nhân dịp Tết 1968 thành
công, sẽ là một thắng lợi quan trọng cho BVN.
Ngược lại, nếu cuộc tổng tấn công thất bại, và chủ lực của MTDTGP bị
quân đội VNCH tiêu diệt, đối với đảng LĐ ở Hà Nội vẫn là điều có lợi, để đảng
LĐ ở BVN gởi cán bộ và quân nhân từ BVN vào điền thế những đơn vị bị tiêu diệt,
nắm gọn và điều khiển toàn bộ MTDTGP, mà không xảy ra tranh chấp nội bộ gay
go. Về sau, một số nhân vật trong MTDTGP
công khai tố cáo âm mưu nầy của đảng LĐ, trong đó có bác sĩ Dương Quỳnh Hoa,
trong MTDTGP. (Stanley Karnow, Vietnam A
History, New York: The Viking Press, 1983, tt. 544-545.)
Với
những tính toán trên đây, dầu cuộc tổng tấn công thành công hay thất bại, đàng
nào đảng LĐ ở Hà Nội cũng đều có lợi, nên họ không ngần ngại mở cuộc tổng tấn
công Tết Mậu Thân.
2. TÌNH HÌNH TRƯỚC CUỘC TỔNG TẤN CÔNG CỦA CSVN
TÌNH
HÌNH BẮC VIỆT NAM: Tại Bắc Việt Nam
(BVN), vào đầu tháng 7-1967, ở Hà Nội diễn ra các cuộc họp quan trọng của Bộ
chính trị và Quân uỷ TƯĐLĐ, duyệt xét kế hoạch phát động cuộc “tổng công kích
và tổng khởi nghĩa” vào dịp Tết Mậu Thân (1968) (Don Oberdorfer, sđd. 54). Đại tướng CS Nguyễn Chí Thanh
(NCT), uỷ viên Bộ chính trị, bí thư Trung ương cục miền Nam (TƯCMN), kiêm chính
uỷ Quân giải phóng miềnNam, từ NVN ra Hà Nội dự họp, chết tại quân y viện 108
ngày 6-7-1967.
Việc
NCT bị đột tử có hai cách giải thích: 1) Theo Don Oberdorfer, sđd. tr. 42, thì NCT ở chiến trường miền
Nam, bị trúng bom và bị thương ở ngực, được đưa qua Nam Vang, rồi về Hà Nội, và
chết lúc 9 giờ sáng ngày 6-7-1967 tại bệnh viện 108 Quân đội. 2) Theo nữ ký giả
Judy Stowe, trong bài, "Lịch sử chủ nghĩa xét lại tại Việt Nam", Đỗ
Văn dịch, Phụ Nữ Diễn Đàn, số
136,1995. (Internet: http://members.aol.com/cahen/xetlai.htm), NCT ra Bắc họp. Sau cuộc họp ngày 6-7 của Bộ chính trị và
Quân uỷ trung ương, nội bộ ăn mừng. Vì
quá chén, đêm hôm đó NCT lên cơn đau tim và chết. Tài liệu của Huy Đức, sđd tr. 96, cho biết sau buổi tiệc tối 5-7-1967, NCT bị chết sáng
6-7 tại bệnh viện Quân y 108 với kết luận của bệnh viện là “nhồi máu cơ tim”. Lúc đó, có tin nói NCT bị đầu độc.
Sau
tang lễ NCT, đại tướng Võ Nguyên Giáp được đưa đi Hungary dưỡng bệnh. Võ Nguyên Giáp được xem thuộc thành phần xét
lại thân Liên Xô, chống lại phe Lê Duẩn.
Tướng Giáp trở về Hà Nội vào ngày 29 Tết tức 28-1-1968. Lúc đó, kế hoạch tổng tấn công Mậu Thân ở NVN
đã được phe Lê Duẩn sắp đặt xong xuôi và nhất là những sĩ quan cao cấp thân cận
với tướng Giáp trong Bộ Quốc phòng hay trong Quân ủy Trung ương đã bị phe Lê Duẩn
loại bỏ. (Huy Đức, sđd. tt.
96-99.)
Hồ
Chí Minh (HCM) được đưa qua Bắc Kinh nghỉ dưỡng ngày 5-9-1967. Bộ Chính trị triệu mời HCM về nước ngày
23-12-1967, rồi sau đó ông ta lại qua Bắc Kinh chiều 1-1-1968. Lê Duẩn thay thế vai trò của HCM. (Huy Đức, sđd. tt. 97-98.) Phạm Hùng được gởi vào Nam, thay thế NCT, giữ
chức bí thư TƯCMN, điều khiển cuộc chiến. (James J. Wirtz, The Tet Offensive, New York: Cornell University Press, 1994, tr.
52. Chính Đạo, Việt Nam niên biểu nhân vật chí, Houston: Nxb. Văn Hóa, 1997,
tr. 447.)
Cũng
từ giữa năm 1967, đảng LĐ bắt giam tất cả những thành phần “xét lại”, theo chủ
trương sống chung hòa bình giữa những nước không cùng chế độ chính trị, nghĩa
là những người trong nhóm không đồng ý với cuộc chiến xâm lăng NVN. Đó là Hoàng Minh Chính (bị bắt ngày
27-7-1967), Vũ Đình Huỳnh, Đặng Kim Giang (bị bắt cùng ngày 18-10-1967). Đảng LĐ còn bách hại, khủng bố, cách chức,
khai trừ ra khỏi đảng hay tù đày khoảng 43 đảng viên, cán bộ cao và trung cấp,
trước khi mở cuộc tổng tấn công Tết Mậu Thân (1968).
Để
chận đứng mọi mưu toan chống lại chủ trương chính sách của đảng LĐ, nhằm tiến
hành cuộc tổng tấn công NVN, nhà cầm CS ban hành pháp lệnh ngày 10-11-1967,
theo đó nhà nước sẽ phạt án từ giam giữ lâu ngày đến cấm cố nhiều năm, hoặc tử
hình, những người phạm tội phản cách mạng, gồm có tội gián điệp, phá hoại, chuyển
ra ngoài những bí mật quốc phòng hay tài liệu của nhà nước. (Don Oberdorfer, sđd. tr. 66.)
Nhân
dịp qua Liên Xô tham dự lễ kỷ niệm 50 năm Cách mạng tháng Mười Liên Xô đồng thời
để xin tăng viện, Lê Duẩn, bí thư thứ nhứt đảng LĐ, ghé Bắc Kinh, trình bày kế
hoạch mới theo quyết định của Bộ chính trị đảng LĐ vào tháng 7-1967 và xin quân
viện.
Trung
Cộng hứa gởi qua BVN 300,000 quân kể cả lực lượng phòng không và công
binh. (Chính Đạo, Mậu Thân 68, thắng hay bại?, Houston: Nxb. Văn Hóa, 1998, tr.
32.) Trung Cộng còn hứa cung cấp hỏa tiễn
107 ly, 240 ly, quân dụng, lương khô, thuốc men.
Tại
Moscow, Liên Xô chấp thuận cho BVN thêm đại bác 130 ly, chiến xa T54, phản lực
cơ Mig 21 và các loại võ khí hạng nặng khác. (Hoàng Lạc, Hà Mai Việt, Nam Việt-Nam, 1954-1975, những sự thật chưa
hề nhắc tới, Texas: 1990, tr. 77.)
Cũng trong dịp nầy, để một lần nữa chứng tỏ tình thân thiện Xô-Việt, những
nhà lãnh đạo Xô Viết quyết định tặng HCM huân chương Lenin.
Theo
thông lệ, khi gần đến năm mới, ngày 15-12-1967, chính phủ Việt Nam Cộng Hòa
(VNCH) thông báo sẽ hưu chiến 24 giờ trong dịp lễ Giáng Sinh năm 1967, 24 giờ
trong dịp Tết dương lịch năm 1968, và 48 giờ trong dịp Tết âm lịch Mậu
Thân. Cũng trong ngày nầy, MTDTGP đưa ra
đề nghị hưu chiến 3 ngày trong dịp lễ Giáng Sinh, 3 ngày trong dịp lễ Tết dương
lịch và 7 ngày trong dịp Tết âm lịch.
(Đoàn Thêm, 1968, sđd. tt.
286-287.)
Trong
khi đó, ngày 28-12-1967, Bộ chính trị đảng LĐ họp phiên đặc biệt do HCM, từ Bắc
Kinh trở về ngày 23-12, chủ trì, quyết định tổng tấn công, tổng khởi nghĩa để
giành thắng lợi. (Huy Đức, sđd. tr.
98.) Để làm lạc hướng dư luận và sự tính
toán của các giới lãnh đạo Hoa Kỳ cũng như VNCH, vào ngày 30-12-1967 (trước Tết
dương lịch 1968), bộ trưởng Ngoại giao Bắc Việt là Nguyễn Duy Trinh tuyên bố sẽ
nói chuyện với Hoa Kỳ nếu Hoa Kỳ ngưng ném bom vô điều kiện. (Clark Dougan, Stephen Weiss và nhiều tác giả,
The Vietnam Experience, Nineteen
Sixty-Eight, Boston Publishing Company: Boston, 1983, tr. 10.) Hà Nội loan báo sẽ thả ba tù binh Hoa Kỳ vì
lý do nhân đạo để đáp ứng những nỗ lực của chính phủ Hoa Kỳ trong việc tìm kiếm
một giải pháp chính trị cho vấn đề Việt Nam (Chính Đạo, Mậu Thân..., sđd. tr.
17).
Cuối
cùng, ngày 21-1-1968, Hội nghị lần thứ 14 Ban chấp Trung ương đảng LĐ khóa III
họp và đưa ra nghị quyết “Anh dũng tiến lên, thực hiện tổng công kích và tổng
khởi nghĩa, giành thắng lợi quyết định cho sự nghiệp chống Mỹ cứu nước” vào đêm
Giao thừa Tết Mậu Thân tại NVN (đêm 29 rạng 30-1-1968). (Báo Nhân Dân, Hà Nội , ngày 31-1-1988, số kỷ
niệm 20 năm cuộc tổng công kích.) Tấn
công vào dịp hưu chiến Tết âm lịch nhằm gây bất ngờ cho NVN.
Tuy
nhiên, có một việc còn bất ngờ hơn nữa:
Đó là việc BVN đổi âm lịch là lịch pháp dựa trên sự tuần hoàn của mặt
trăng mà người Việt Nam quen dùng.
Nguyên vào ngày 8-8-1967, nhà nước VNDCCH ra quyết định số 121/CP cho Nha Khí tượng
thay đổi âm lịch, theo đó tháng chạp năm đinh mùi ở BVN không có ngày 30 âm lịch
(gọi là tháng thiếu), trong khi ở NVN vẫn có ngày 30 âm lịch, nghĩa là mồng 1 Tết
BVN đến trước mồng 1 Tết NVN một ngày.
Việc
đổi âm lịch nầy có hai điểm đáng ghi nhận: 1) Nha Khí tượng Hà Nội xác nhận việc
đổi âm lịch không theo tính toán của những nhà lịch pháp, mà theo quyết định của
nhà cầm quyền Hà Nội. (Lịch thế kỷ XX , Nxb. Phổ Thông, Hà Nội,
1968, "Lời giới thiệu của Nha Khí
tượng".) Như thế có nghĩa là sự
thay đổi do quyết định hành chánh và chính trị chứ không phải là do nghiên cứu
chuyên môn khoa học. Nếu đúng như lời trên
đây của Nha Khí tượng Hà Nội, thì nhà cầm quyền CS phải có một dụng ý nào đó mới
ban hành quyết định đổi lịch. Dụng ý có
lẽ nhắm vào mục đích chiến dịch Tết mậu thân. 2) Việc đổi âm lịch không được
thông báo trước mà chỉ cho dân chúng BVN biết khi đem ra áp dụng vào đầu năm
dương lịch, tháng 01-1968, nghĩa là chỉ còn hơn một tháng là đến Tết âm lịch
năm mậu thân. Điều nầy được xác nhận
trong "Lời nói đầu" hoặc "Lời giới thiệu" của các lần xuất bản về sau sách Lịch thế kỳ XX, ví dụ lần xuất bản thứ
hai (1977), thứ ba (1982), và thứ tư (1991)...
Tóm
lại: ngày 29-1-1968 là mồng 1 Tết mậu
thân ở BVN và là ngày 30 tháng chạp đinh mùi ở NVN. Ngày 30-1-1968 là mồng 2 Tết ở BVN là ngày mồng
1 Tết ở NVM. Nghĩa là dân chúng BVN và
NVN mừng Tết trong hai ngày khác nhau: dân chúng BVN mừng Tết một ngày trước dân
chúng NVN. Nói cách khác, dân chúng BVN
mừng Tết xong rồi, CS mới tấn công ngày dân chúng NVN mừng Tết.
TÌNH
HÌNH NAM VIỆT NAM: Tại NVN, ngày
31-10-1967, liên danh đắc cử tổng thống và phó tổng thống Nguyễn Văn Thiệu và
Nguyễn Cao Kỳ nhận chức, nhiệm kỳ bốn (4) năm.
Tân tổng thống Nguyễn Văn Thiệu ký sắc lệnh số 005/TT/SL ngày 9-11-1967
bổ nhiệm luật sư Nguyễn Văn Lộc lập chính phủ mới. Tân nội các gồm đa số là chuyên viên, không đảng
phái.
Trên
chiến trường, gần cuối năm 1967, CS mở nhiều cuộc tấn công mạnh mẽ ở nhiều nơi
từ Lộc Ninh (tỉnh Bình Long), đến Dakto (tỉnh Kontum), Khe Sanh (tỉnh Quảng Trị). Gần Tết Mậu Thân (1968), CSVN tung quân tấn
công các cứ điểm quân sự ở cao nguyên Trung phần, đưa ba sư đoàn 304, 320, 325,
và hai trung đoàn Pháo binh cùng một đơn vị thiết giáp T-54, bao vây và pháo
kích dữ dội Khe Sanh (Quảng Trị), gần vùng giới tuyến giữa hai miền Nam Bắc, từ
ngày 19-1-1968. (Nguyễn Đức Phương, Chiến
tranh Việt Nam toàn tập, Toronto: Nxb. Làng Văn, 2001, tt. 379-381.) Lúc đó có ý kiến cho rằng đây có thể sẽ là một
trận Điên Biên Phủ thứ hai. (John S. Bowman (tổng biên tập), The Vietnam War, Day by Day, New York:
Maillard Press, 1989, tr. 119.)
Trong
khi đó, CS âm thầm chuẩn bị các cuộc tấn công vào thành phố. Ngày 2-1-1968, tại cao nguyên Trung phần,
quân đội Hoa Kỳ tịch thu được một tài liệu có đầy đủ kế hoạch CS tấn công
Pleiku và Kontum. Ngày 15-1, tại Khe
Sanh, một sĩ quan CS hồi chánh cho biết sẽ có chiến dịch lớn tại vùng giới tuyến. Với nhiều tin tức tình báo khác, Bộ tư lệnh
quân đội Hoa Kỳ tại Việt Nam ra lệnh báo động và thông báo cho quân đội VNCH biết,
và yêu cầu VNCH hủy bỏ lệnh hưu chiến nhân dịp Tết Mậu Thân.
Tổng
thống Nguyễn Văn Thiệu và đại tướng Cao Văn Viên, tổng tham mưu trưởng quân đội
VNCH, chỉ đồng ý bãi bỏ hưu chiến tại Vùng I Chiến thuật, và rút bớt 24 giờ hưu
chiến trên toàn quốc. (Chính Đạo, Mậu
Thân…, sđd. tt. 31-32, 344.)
Một
dấu hiệu nữa về việc CS sẽ tổng tấn công trong dịp Tết là ngày 29-1-1968 (30 Tết
NVN), tại Quy Nhơn, tỉnh Bình Định (thuộc QĐ II và Vùng II CT - VNCH), chính quyền
sở tại VNCH bắt được trước sau 10 cán bộ CS với những tài liệu quan trọng,
trong đó có cả máy ghi âm sẵn lời phát thanh kêu gọi dân chúng tổng khởi
nghĩa. Tỉnh trưởng Bình Định báo cáo vụ
việc lên thượng cấp, nhưng bộ Tư lệnh Vùng II CT không quan tâm. (Chính Đạo, Mậu Thân ..., sđd. tr. 31.)
Lúc
đó, dư luận chung trong cũng như ngoài nước tin tưởng vào sự hiện diện của khoảng
500,000 quân Mỹ tại Việt Nam sẽ bảo đảm an toàn cho VNCH. Hơn nữa, do CS vừa tuyên truyền vừa chuyển
quân đe dọa Khe Sanh nặng nề, nên mọi người chú tâm đến trận chiến ở vùng giới
tuyến, mà ít chú ý đến những diễn tiến chung quanh các thành phố, rộn rịp khác
thường trong những ngày trước Tết Mậu Thân.
Dù
tổng thống Thiệu đã ra lệnh giảm hưu chiến còn 24 giờ trên toàn quốc, và bãi bỏ
hưu chiến ở Vùng I CT, nhưng nói chung, mọi nơi đều nô nức đón Tết, nên việc
canh phòng có phần lơ là và quả thật cuộc tổng tấn công của CSVN là một trận
đánh hoàn toàn bất ngờ với dân chúng miền Nam.
Có
tài liệu cho rằng cuộc tổng tấn công Tết Mậu Thân là một trong ba biến cố bất
ngờ nhứt trong cuộc chiến Việt Nam từ 1960 đến 1975. (James J. Wirtz, sđd. tr. 28. Hai biến cố kia là: (1) Sự can thiệp và tham
chiến trực tiếp của Hoa Kỳ năm 1964, mà Lê Duẩn đã phải thốt lên vào năm 1965:
"Tình hình biến chuyển mau lẹ hơn là
chúng tôi đã dự đoán." (2) Vụ ném bom ở Hà Nội và Hải Phòng của Không
lực Hoa Kỳ vào ngày 23-12-1972.)
Một
biến cố quốc tế khá quan trọng đối với Hoa Kỳ trước biến cố Tết Mậu Thân, là
vào ngày 23-01-1968, tàu tuần thám Pueblo
với thủy thủ đoàn 83 người của Hải quân Hoa Kỳ, đang di chuyển trong hải phận
quốc tế dọc theo duyên hải Bắc Triều Tiên (BTT), bị chiến hạm BTT bắt giam.
Dư
luận Hoa Kỳ đang chú tâm theo dõi vụ Pueblo
bị bắt rất căng thẳng, thì một tuần sau, nổ ra cuộc tổng tấn công của CSVN
vào các thành phố khắp lãnh thổ VNCH. (Về
sau, thủy thủ đoàn tàu Pueblo được
BTT thả ngày 23-12-1968.) (Còn tiếp bài
2, “Lệnh tấn công”)
TRẦN
GIA PHỤNG
(Toronto,
6-3-2016)